Bản án 63/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 63/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/8/2017, tại Hội trường thôn Đ, thị trấn G, huyện G, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 62/2017/HSST ngày 26 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Bùi Văn Đ, sinh năm 1993; Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Thôn P, xã H, huyện G, tỉnh Hải Dương. Văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Bùi Văn H, sinh năm 1957 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1956; Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/7/2017 đến ngày 12/7/2017 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi- Công an tỉnh Hải Dương; Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Bùi Văn Đ bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Đ là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 10/7/2017, Đ đi bộ từ nhà ở thôn P, xã HD, huyện G, tỉnh Hải Dương ra Quốc lộ 37 để đi xe bus lên khu vực X thuộc xã GX, huyện G, tỉnh Hải Dương với mục đích mua Heroin để sử dụng. Tại đây, Đ gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ tên tuổi, địa chỉ, Đ hỏi “Có hàng bán không”, người đàn ông đó hiểu ý Đ muốn mua Heroin nên trả lời là “Có”. Đ nói “Bán cho tôi 400.000đồng”. Đ đưa cho người đàn ông đó số tiền 400.000đồng, người đàn ông cầm tiền đi ra chỗ khác, một lúc sau quay lại và đưa cho Đ 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa Heroin. Đ cất gói Heroin vào túi bên trái quần đang mặc rồi đi bộ ra đường đi xe bus về nhà. Đến khu vực Q, xã HH, huyện G, tỉnh Hải Dương, Đ xuống xe và đi bộ vào thôn C, xã HH, huyện G để tìm chỗ sử dụng ma túy. Khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi Đ đang đi bộ trong thôn C thì bị lực lượng Công an huyện Gia Lộc phối hợp với Công an xã HH, huyện G phát hiện bắt quả tang Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi bên trái quần đang mặc của Đ 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Đ khai nhận là Heroin, cất giấu với mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 246/KLGĐ ngày 11/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng, ghi thu của Đ gửi đến giám định có trọng lượng là 0,261 gam, là Heroin. Heroin nằm trong Danh mục I, STT 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định: Trả 0,207 gam Heroin.

Quá trình điều tra vụ án, bị cáo Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 62/VKS-HS ngày 24/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc truy tố bị cáo Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình như tại Cơ quan điều tra và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự 1999, Nghị quyết 41/2017QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 3, Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt bị cáo Đ từ 13 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 10/7/2017; Hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroin hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì được niêm phong dán kín số 246/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/7/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lộc). Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu nộp, miễn giảm, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo Đ tại phiên toà phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: “Hồi 14 giờ 10 phút ngày 10/7/2017 tại thôn C, xã HH, huyện G, tỉnh Hải Dương, tổ công tác của Công an huyện Gia Lộc đã phát hiện, bắt quả tang Đ đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroin có trọng lượng 0,261gam trong túi bên trái quần Đ đang mặc với mục đích để sử dụng”. Bị cáo Đ là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ Heroin là chất bị Nhà nước cấm lưu hành nhưng vì bản thân nghiện, nên bị cáo vẫn cố ý mua cất giấu trong người để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Chất ma tuý hay những chất có tính chất kích thích thần kinh khác đều có tác hại rất lớn đến con người cũng như toàn xã hội. Ma túy không chỉ là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV- AIDS mà còn là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo đức của dân tộc. Bị cáo có nhân thân xấu: đã bị Công an huyện Gia Lộc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10 về hành vi đánh bạc, hình thức xử phạt cảnh cáo và ngày 15/5/2012, Chủ tịch UBND huyện Gia Lộc ra Quyết định số 1344 về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh trong thời gian 24 tháng. Bị cáo đều đã chấp hành xong đã được xóa nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự,

Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội thực hiện một số quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015. Khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Đ, HĐXX sẽ xem xét áp dụng khung hình phạt quy định có lợi cho bị cáo theo khoản 1 điều 249 BLHS năm 2015 là từ 1 năm đến 5 năm, nhẹ hơn so với khung hình phạt tại khoản 1 Điều 194 BLHS 1999 là từ 02 đến 07 năm tù.

Về tình tiết tăng nặng: Không.

Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy bị cáo Đ không có nghề nghiệp và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đối với 01 phong bì được niêm phong dán kín số 246/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh Hải Dương, bên trong là Heroin hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Đ khai đã mua của 01 người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ ở khu vực khu vực X thuộc xã GX, huyện G, tỉnh Hải Dương, quá trình điều tra không xác định được là ai, nên không có căn cứ xử lý.

Về án phí: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự 1999; Nghị quyết số 41/2017QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 3, Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Đ 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 10/7/2017. 2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong dán kín số 246/PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh Hải Dương (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/7/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lộc)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu nộp, miễn giảm, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:63/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về