Bản án 630/2020/HSST ngày 23/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 630/2020/HSST NGÀY 23/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 613/2020/HSST ngày 26 tháng 10 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 663/2020/QĐXXST-HS ngày 11/11/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Sầm Trung N; Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1985. Nơi cư trú: D682B, khu phố 4, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: không.

Họ tên cha: Sầm Cao B, Sinh năm 1958 (còn sống);

Họ tên mẹ: Mai Thị Q, Sinh năm: 1962 (còn sống);

Họ tên chị: sầm Thị Mai H, Sinh năm 1983;

Gia đình bị can có 02 chị em, bị can là con út trong gia đình và có vợ Nguyễn Thị B, sinh năm 1993. Tiền án, tiền sự: không.

Ngày 07/8/2020 Sầm Trung N bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại D682B, khu phố 4, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.( Bị cáo có mặt)

Bị hại: Anh Trần Hùng C, sinh năm: 1999.

Địa chỉ HKTT: Ắp Thanh Mỹ C, xã B, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

Địa chỉ cư trú: 50/3B, KP2, phường A, TP B, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt).

- Người có quyền lợi, Nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Văn T, sinh năm 1992.

Địa chỉ HKTT: Xóm 6, xã Ngh, huyện Ngh, tỉnh Nghệ An.

Địa chỉ cư trú: E178, tổ 2, KP5, phường L, TP B, tỉnh Đồng Nai (có mặt).

2. Chị Mai Thị Ch, sinh năm 1973

Địa chỉ: 55/16B, KP6, phường T, TP B, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung yụ án được tóm tắt như sau

a) Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 12 giờ ngày 30/5/2020, sầm Trung N mượn xe mô tô biển số 60F1- 743.69 của chị Mai Thị Ch, sinh năm 1973, ở tại 55/16B, khu phố 6, phường T, thành phố B điều khiển đi đến bãi giữ xe của siêu thị Big C ở khu phố 1, phường Long Bình Tân, thành phố B để trộm cắp tài sản. Sau khi gửi xe vào bãi, N nhìn thấy xe mô tô biển số 60B8-456.12 của anh Trần Hùng C, sinh năm 1999, trú tại ấp Thanh Mỹ C, xã B, huyện Ph, tỉnh Hậu Giang đang để trong bãi giữ xe, chìa khóa xe còn cắm sẵn trên ổ khóa xe nên N đã lén lút đi đến mở cốp xe lên thì phát hiện trong cốp xe có một thẻ giữ xe nên N lấy thẻ ra và ngồi lên xe biển số 60B8-456.12 điều khiển đi ra ngoài và chạy đến tiệm sửa xe của anh Lê Văn Tuân, sinh năm 1992, trú tại E178, tổ 2, khu phố 5, phường L, thành phố B bán được 1.000.000 đồng (một triệu đồng), có tiền N tiêu xài cá nhân hết 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Đến 13 giờ 30 phút N đi ra bãi giữ xe thì bị bảo vệ bãi giữ xe Big C phát hiện nghi vấn nên đã giữ N và trình báo sự việc lên Công an phường L lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý theo quy định. Tại Cơ quan điều tra N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 60B8-456.12 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho anh Trần Hùng Cường là chủ sở hữu.

- 01 xe mô tô biển số 60F 1-743.69 N mượn của chị Mai Thị Chỉnh, chị Chỉnh cho mượn nhưng không biết N mượn để đi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị Mai Thị Ch là chủ sở hữu.

- 01 USB ghi lại hình ảnh đối tượng N đã trộm cắp tài sản (lưu kèm theo hồ sơ).

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) cho anh Lê Văn T.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 240 ngày 12/6/2020 đối với 01 xe mô tô biển số 60B8-456.12 có giá trị là 5.000.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: anh Trần Hùng C và anh Lê Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường;

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản cáo trạng số 610/CT-VKSBH ngày 16/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B đã truy tố bị cáo Sầm Trung N, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nhu cáo trạng đã thể hiện, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo sầm Trung N với mức án từ 12-14 tháng cải tạo không giam giữ.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về việc truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo sầm Trung N khai nhận:

Khoảng 12 giờ ngày 30/5/2020, bị cáo đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô biển số 60B8-456.12 của anh Trần Hùng C tại bãi giữ xe siêu thị Big c ở khu phố 1, phường L, thành phố B.

Theo kết luận định giá trị tài sản bị cáo đã trộm cắp là có giá trị là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng), bị cáo đồng ý với kết luận định giá.

Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác thể hiện tại hồ sơ vụ án, từ đó đã có đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội của bị cáo. Qua xem xét nhân và hành vi của bị cáo xét thấy Viện kiểm sát nhân dân thành phố” Biên Hòa đã truy tố bị cáo sầm Trung N, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng căn cứ pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải có một mức án nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại nên xem xét giảm nhẹ một phần về mức hình phạt cho bị cáo theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[41 Về xử lý vật chứng.

- 01 xe mô tô biển số 60B8-456.12 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho anh Trần Hùng c là chủ sở hữu là phù hợp nên không đặt ra xem xét.

- 01 xe mô tô biển số 60F 1-743.69 N mượn của chị Mai Thị Ch, chị Ch cho mượn nhưng không biết N mượn để đi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị Mai Thị Ch là chủ sở hữu là phù hợp nên không đặt ra xem xét.

- 01 USB ghi lại hình ảnh đối tượng N đã trộm cắp tài sản (tiếp tục lưu kèm theo hồ sơ).

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) cho anh Lê Văn T là phù hợp nên không đặt ra xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Anh Trần Hùng Cường và anh Lê Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét;

[6] Án phí. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Lê Văn T khi mua xe mô tô biển số 60B8-456.12 không biết do N trộm cắp được mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xử lý.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo sầm Trung N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo sầm Trung N 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.

Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát giáo dục, người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Sầm Trung N cho Ủy ban nhân dân phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Án phí Hình sự sơ thẩm :

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo:

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Vãn Tuân có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan váng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 630/2020/HSST ngày 23/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:630/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về