Bản án 626/2020/HNGĐ-PT ngày 02/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 626/2020/HNGĐ-PT NGÀY 02/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 02 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2020/TLPT-HNGĐ ngày 03/03/2020 về tranh chấp ly hôn.

Do bản án sơ thẩm số 40/2020/HNGĐ-ST ngày 16 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2410/2020/QĐ-PT ngày 07/5/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 5824/2020/QĐ-PT ngày 05/6/2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1975.

Địa chỉ: tổ W, ấp Q, xã TTĐ , huyện C, Thành phố Hồ chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1981.

Địa chỉ: tổ Y, ấp Y, xã TTĐ, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn M trình bày:

Ông và bà Trần Thị Ngọc H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 230 do Ủy ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/9/2003. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại nhà riêng của ông bà tại tổ Y, ấp Y, xã TTĐ, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khoảng thời gian chung sống ông nhận thấy giữa ông và bà H có nhiều sự khác biệt về cách sống và quan điểm sống. Nguyên nhân là do bà H không tôn trọng ông, khi ông lập bàn thờ gia tiên thì bà H có ý không muốn thờ cúng ông bà. Ngoài ra, còn có mâu thuẫn về kinh tế, trong gia đình chỉ có ông đi làm bên ngoài, còn bà H lo nội trợ trong gia đình, khi làm ăn khó khăn, kinh tế eo hẹp thì bà H thường hay khó chịu, hai bên cải vã, mỗi lần như vậy thì bà H đem vứt hết quần áo của ông ra khỏi nhà, ông giận quá nên bỏ nhà ra sống nhờ nhà của một người cháu và chính thức ly thân từ đó cho đến nay. Nay ông nhận thấy không thể sống chung với bà H nên ông yêu cầu được ly hôn với bà H.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn TN, sinh ngày 28/4/2004 và Nguyễn TH, sinh ngày 11/11/2005. Ông giao quyền nuôi con cho bà H và cấp dưỡng nuôi con mỗi trẻ 3.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản chung: Ông M trình bày sẽ tự thỏa thuận về tài sản chung với bà H nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ dân sự chung: Ông M trình bày không có.

Bị đơn bà Trần Thị Ngọc H đã được Tòa án huyện Củ Chi tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định xét xử và quyết định hoãn phiên Tòa nhưng bà H vẫn không đến Tòa để giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt đối với bà H.

Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 40/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ Khoản 1 Điều 28 ; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Điều 9; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 110; Điều 117 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Điều 6; Điều 7, Điều 26; Điều 30; Điều 31; Điều 32 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008; Luật phí và Lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn M.

-Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Văn M được ly hôn với bà Trần Thị Ngọc H.

Kể từ ngày 16/01/2020, Giấy chứng nhận kết hôn số 230 do Ủy ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/9/2003 không còn giá trị pháp lý.

-Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn TN, sinh ngày 28/4/2004 và Nguyễn TH, sinh ngày 11/11/2005.

Bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung; ghi nhận sự tự nguyện của ông M cấp dưỡng nuôi mỗi con là 3.000.000 đồng/ tháng, hai con là 6.000.000 đồng/ tháng, bắt đầu thi hành từ tháng 01/2020 cho đến khi con chung lần lượt đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Ông Nguyễn Văn M trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ dân sự chung: Ông Nguyễn Văn M trình bày không có.

Nếu bà H, ông M có tranh chấp về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung thì sẽ giải quyết ở vụ án khác.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung sau khi ly hôn, về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 31/01/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi ban hành quyết định số 01/QĐ-VKS-HNGĐ kháng nghị một phần bản án sơ thẩm nói trên vì nhận thấy việc Tòa án nhân dân huyện Củ Chi không tuyên phần án phí cấp dưỡng nuôi con chung của ông Nguyễn Văn M là không đúng quy định pháp luật.

Tại phiên Tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn M có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn bà Trần Thị Ngọc H vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của pháp luật.

Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi còn trong hạn luật định nên hợp lệ.

Về nội dung:

Xét thấy bản án sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện của ông M cấp dưỡng nuôi mỗi con là 3.000.000 đồng/ tháng, hai con là 6.000.000 đồng/ tháng, nhưng không tuyên về án phí cấp dưỡng nuôi con là không đúng theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự sửa một phần bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hình thức:

Quyết định kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi hợp lệ về hình thức. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng Dân sự bản án sơ thẩm được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về tố tụng:

Ngày 18/5/2020 nguyên đơn ông Nguyễn Văn M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn bà Trần Thị Ngọc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên Tòa nhưng bà H vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung kháng nghị:

Xét thấy, tại bản số 40/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi đã tuyên xử ông Nguyễn Văn M được ly hôn với bà Trần Thị Ngọc H. Giao bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn TN, sinh ngày 28/4/2004 và Nguyễn TH, sinh ngày 11/11/2005. Ghi nhận sự tự nguyện của ông M cấp dưỡng nuôi mỗi con là 3.000.000 đồng/ tháng (hai con là 6.000.000 đồng/ tháng), bắt đầu thi hành từ tháng 01/2020 cho đến khi con chung lần lượt đủ 18 tuổi.

Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn M phải chịu, được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông M đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0022809 ngày 27/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi.

Căn cứ theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì nguyên đơn ông M ngoài việc phải chịu tiền án phí ly hôn còn phải chịu thêm tiền án phí mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ hoặc một lần theo quyết định Tòa án phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm nói trên lại có thiếu sót về phần tuyên án phí mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng là ông Nguyễn Văn M phải chịu.

Ngày 03/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi ban hành Quyết định số 05/2020/QĐ-SCBSBA sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm nêu trên như sau:

“Về án phí sơ thẩm: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn M phải chịu, được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông M đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0022809 ngày 27/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi. Án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn M phải chịu”.

Nhận thấy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi kháng nghị đối với bản án sơ thẩm nói trên là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã kịp thời ban hành Quyết định số 05/2020/QĐ-SCBSBA ngày 03/02/2020 để sửa chữa, bổ sung bản án, nhằm khắc phục những thiếu sót nên xét thấy cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 293; khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ vào các Điều 357; Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật thi hành án dân sự; Xử:

1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 40/2020/HNGĐ-ST ngày 16/01/2020 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 05/2020/QĐ-SCBSBA ngày 03/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn M.

-Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Văn M được ly hôn với bà Trần Thị Ngọc H.

Kể từ ngày 16/01/2020, Giấy chứng nhận kết hôn số 230 do Ủy ban nhân dân xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/9/2003 không còn giá trị pháp lý.

-Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn TN, sinh ngày 28/4/2004 và Nguyễn TH, sinh ngày 11/11/2005.

Bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung; ghi nhận sự tự nguyện của ông M cấp dưỡng nuôi mỗi con là 3.000.000 đồng/ tháng, hai con là 6.000.000 đồng/ tháng, bắt đầu thi hành từ tháng 01/2020 cho đến khi con chung lần lượt đủ 18 tuổi.

Ông M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp ông M lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Minh.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, yêu cầu của cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84; khoản 2 Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức trợ cấp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

1.2. Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông M chưa thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con như trên thì hàng tháng ông M còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

- Về tài sản chung: Ông Nguyễn Văn M trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ dân sự chung: Ông Nguyễn Văn M trình bày không có.

Nếu bà H, ông M có tranh chấp về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung thì sẽ giải quyết ở vụ án khác.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn M phải chịu, được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông M đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0022809 ngày 27/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi. Án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) ông Nguyễn Văn M phải chịu.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 626/2020/HNGĐ-PT ngày 02/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:626/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về