TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 624/2017/HSPT NGÀY 05/12/2017VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Trong ngày 05 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 588/2017/HSPT ngày 23/10/2017 đối với bị cáo Lê Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 158/2017/HSST ngày 18/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo kháng cáo:
Lê Thị T, giới tính: nữ; sinh năm 1980 tại Thanh Hóa; trú tại: xã A1, huyện A2, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: xã A3, huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: thợ may; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Lê Ngọc D (chết) và con bà Lê Thị C (chết); hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phần đất thuộc thửa A4, tờ bản đồ A5 xã A3, huyện A do Lê Thị T mua bằng giấy tay. Phần đất này không đủ điều kiện được cấp phép xây dựng nhưng Lê Thị T vẫn thuê người xây dựng nhà cấp 4 trên phần đất này (nhà vách tôn, mái tôn). Do vậy, Ủy ban nhân dân xã A3, huyện A đã ban hành Quyết định số 56/QĐ-UBND về việc đình chỉ thi công xây dựng công trình vi phạm trật tự xây dựng ngày 07/4/2017, ngày 08/5/2017, Ủy ban nhân dân xã A3, huyện A đã ban hành Quyết định số 94/QĐ-UBND về việc cưỡng chế phá dỡ công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng đô thị đối với bà Lê Thị T nhưng bà Lê Thị T không tự nguyện tháo dỡ nhà xây dựng trái phép. Do đó, vào lúc 07 giờ 00 phút ngày 20/5/2017, đoàn cưỡng chế của Ủy ban nhân dân xã A3, huyện A đã đến cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà nhưng Lê Thị T không chịu mở cửa, tuy nhiên đoàn cưỡng chế vẫn tiến hành tháo dỡ được 02 tấm tôn trên mái nhà. Khi đoàn cưỡng chế đang tiến hành cưỡng chế thì bà Lê Thị T đã cầm 01 con dao thái lan dài 23cm kề vào cổ anh Trần Long N là cán bộ trật tự quản lý đô thị xã A3 khống chế và yêu cầu anh N nói với đoàn cưỡng chế ngừng việc cưỡng chế, nhưng anh N đã dùng tay gạt con dao ra nên anh N bị trầy xướt da trên cổ và bị chảy máu ở 03 ngón tay. Cùng lúc đó thì tổ cưỡng chế cũng khống chế và bắt quả tang Lê Thị T về hành vi chống người thi hành công vụ.
Qua kiểm tra dấu vết trên người anh N: có 01 vết xướt dài 7cm trên cổ và 03 vết đứt da trên bàn tay trái nhưng anh N từ chối giám định thương tật.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 158/2017/HSST ngày 18/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Thị T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 257; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Lê Thị T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 18/9/2017 Tòa án xét xử sơ thẩm, cùng ngày 18/9/2017 Lê Thị T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Lê Thị T khai nhận hành vi như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu, đồng thời ngoài yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt thì bị cáo cũng bổ sung yêu cầu kháng cáo là xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến củakiểm sát viên, bị cáo,.
XÉT THẤY
Phần đất thuộc thửa A4, tờ bản đồ A5 tại xã A3, huyện A do Lê Thị T mua bằng giấy tay. Phần đất này không đủ điều kiện được cấp phép xây dựng nhưng Lê Thị T vẫn thuê người xây dựng nhà cấp 4 trên phần đất này (nhà vách tôn, mái tôn). Do vậy, Ủy ban nhân dân xã A3, huyện A đã ban hành Quyết định số 56/QĐ-UBND về việc đình chỉ thi công xây dựng công trình vi phạm trật tự xây dựng ngày 07/4/2017, ngày 08/5/2017, Ủy ban nhân dân xã A3, huyện A đã ban hành Quyết định số 94/QĐ-UBND về việc cưỡng chế phá dỡ công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng đô thị đối với bà Lê Thị T nhưng bà Lê Thị T không tự nguyện tháo dỡ nhà xây dựng trái phép. Do đó, vào lúc 07 giờ 00 phút ngày 20/5/2017, đoàn cưỡng chế của Ủy ban nhân dân xã A3, huyện A đã đến cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà nhưng Lê Thị T không chịu mở cửa, tuy nhiên đoàn cưỡng chế vẫn tiến hành tháo dỡ được 02 tấm tôn trên mái nhà. Khi đoàn cưỡng chế đang tiến hành cưỡng chế thì bà Lê Thị T đã cầm 01 con dao thái lan dài 23cm kề vào cổ anh Trần Long N là cán bộ trật tự quản lý đô thị xã A3 khống chế và yêu cầu anh N nói với đoàn cưỡng chế ngừng việc cưỡng chế, nhưng anh N đã dùng tay gạt con dao ra nên anh N bị trầy xướt da trên cổ và bị chảy máu ở 03 ngón tay. Cùng lúc đó thì tổ cưỡng chế cũng khống chế và bắt quả tang Lê Thị T về hành vi chống người thi hành công vụ.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Lê Thị T phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Ngày 18/9/2017 Tòa án xét xử sơ thẩm, thì trong ngày 18/9/2017 bị cáo Lê Thị T có đơn kháng cáo bản án là trong thời hạn luật định nên hợp lệ.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo: Bị cáo Lê Thị T đã dùng dao khống chế người có thẩm quyền trong khi đang thực hiện nhiệm vụ được giao, đã gây cản trở cho hoạt động của cơ quan nhà nước và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Hành vi này của bị cáo Toàn đã xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn xã hội và gây cản trở cho hoạt động của cơ quan nhà nước, do đó, cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 257 Bộ luật Hình sự và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Toàn là: bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải theo quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 và tuyên phạt bị cáo với mức án là 12 tháng tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị T có cung cấp cho Hội đồng xét xử Đơn xin xem xét giảm án tù của một số người dân cư trú tại xã A3, huyện A về việc xin cho bị cáo được hưởng án treo, ngoài ra bị cáo không xuất trình tình tiết nào mới để xem xét thêm cho yêu cầu của bị cáo. Xét thấy Đơn xin xem xét giảm án tù này không phải là tình tiết giảm nhẹ để xem xét cho bị cáo nhưng với hoàn cảnh và hành vi phạm tội của bị cáo cùng nhiều tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo như đã nêu ở trên, thì mức hình phạt 12 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là có phần nghiêm khắc, chưa tương xứng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Lập luận trên đây là căn cứ để không chấp nhận lời trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa hôm nay.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
Áp dụng Điều 241; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Thị T và sửa bản án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo Lê Thị T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 257; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Xử phạt: Lê Thị T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành án.
- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;
Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải nộp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 624/2017/HSPT ngày 05/12/2017 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 624/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về