Bản án 623/2021/HNGĐ-ST ngày 25/06/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 623/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 6 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 130/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2021. Về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 174/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V, sinh năm: 1989.

Địa chỉ: E14/431/3C, tổ 14, ấp A, xã Đ, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. (có đơn xin giải quyết vắng mặt).

Nơi cư trú: 85/124A đường B, phường 5, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Trần Trọng Q, sinh năm: 1987.

Địa chỉ: E14/431/3C, tổ A, ấp B, xã Đ, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19 tháng 01 năm 2021; bản tự khai, biên bản hòa giải; biên bản không tiến hành hòa giải được, bà Nguyễn Vĩnh Thùy V trình bày: Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V và ông Trần Trọng Q có tổ chức đám cưới và tự nguyện kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND phường 5, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, chung sống một thời gian thì phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, do tính tình quan điểm sống không còn hòa hợp, vợ chồng không có sự yêu thương chăm sóc lẫn nhau. Vợ chồng đã sống ly thân hơn một năm nay. Nay nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà V yêu cầu ly được hôn với ông Q.

Về con chung: Bà V và ông Q có một con chung tên là Trần Nguyễn Thiên Bảo, sinh ngày 18/10/2010. Bà V yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Bảo và bà V không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con chung. Trẻ Bảo đang ở với ông Q.

Sau buổi hòa giải ngày 01/3/2021, tại Tòa án Bình Chánh thì ngay hôm sau ông Q mang trẻ Trần Nguyễn Thiên Bảo sang cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng; bà V có liên hệ với ông Q trả con cho ông nuôi theo yêu cầu của ông thì ông Q trả lời là đã bỏ nhà đi trốn nợ. Do vậy bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.

Tại bản tự khai; biên bản hòa giải ngày 13/01/2021, bị đơn ông Trần Trọng Q trình bày:

Ông Trần Trọng Q xác nhận lời trình bày của bà V là đúng. Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V và ông Trần Trọng Q tự nguyện kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND phường 5, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, thời gian đầu sống chung hạnh phúc và có 01 con chung tên Trần Nguyễn Thiên Bảo, sinh ngày 18/10/2010; sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, do tính tình quan điểm sống không còn hòa hợp, vợ chồng không có sự yêu thương chăm sóc lẫn nhau. Bà V tự ý bỏ nhà ra ở riêng khoảng 02 tháng nay. Hiện nay trẻ Bảo đang ở với ông Q. Nay bà V làm đơn yêu cầu Tòa án cho bà ly hôn với ông Q thì ông đồng ý ly hôn với bà V.

Về con chung: Ông Q yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ Trần Nguyễn Thiên Bảo, sinh ngày 18/10/2010. Không yêu cầu bà V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có;

Ngoài ra không có yêu cầu gì khác Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; ông Trần Trọng Q đến Tòa làm bản tự khai và tham gia phiên hòa giải. Tuy nhiên sau đó không đến tham dự phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đã phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng. Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1].Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V khởi kiện yêu cầu Tòa án cho ly hôn với ông Trần Trọng Q; Ông Trần Trọng Q có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2].Về sự vắng mặt của bị đơn ông Trần Trọng Q, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng ông Q vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án; bà Nguyễn Vĩnh Thùy V có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt và V và ông Q theo quy định tại Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về Nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 213; quyển số 01/2010, do UBND phường 5, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 19/8/2010, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Vĩnh Thùy V và ông Trần Trọng Q là hôn nhân hợp pháp được qui định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Vĩnh Thùy V xác nhận là đời sống chung giữa bà và ông Q có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không còn hòa hợp và không ai còn quan tâm chăm sóc nhau từ lâu. Đồng thời qua lời trình bày của cả hai đương sự thì thực tế cả hai đã sống ly thân, từ lâu không ai còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau thì có cơ sở xác định tình trạng hôn nhân giữa bà V và ông Q là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt; tại biên bản hòa giải ngày 01/3/2021 ông Q cũng đồng ý ly hôn với bà V;

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy việc bà Nguyễn Vĩnh Thùy V yêu cầu ly hôn với ông Trần Trọng Q là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Vĩnh Thùy V.

[2.2] Về con chung: Có một con chung tên Trần Nguyễn Thiên Bảo, sinh ngày 18/10/2010. Bà V và ông Q đều yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Bảo.

Trẻ Bảo đang ở với ông Q; Tuy nhiên sau ngày 01/3/2021 thì ông Q đã giao trẻ Bảo cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng và ông bỏ nhà đi đâu không rõ. Xét yêu cầu của bà V là phù hợp, bởi lẽ kể từ trẻ Bảo được sinh ra thì bà là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; sau khi bà và ông Q sống ly thân thì ông Q giữ trẻ Bảo lại, nhưng sau đó ông Q không có điều kiện chăm sóc nên đã giao lại cho bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Bảo; Mặt khác, do trẻ Bảo còn nhỏ và cần sự ổn định về tâm sinh lý của trẻ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà V.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V không yêu cầu ông Trần Trọng Q cấp dưỡng nuôi con. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Q. [2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà V khai là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Riêng ông Q vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung theo chứng cứ và yêu cầu của bà V. Trường hợp các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[2.4] Ông Trần Trọng Q đã được Tòa án triệu tập đến để ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án với nguyên đơn nhưng ông vẫn vắng mặt. Vì vậy, ông Q đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.

[3] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227 và khoản 1 Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ vào Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 6; Điều 91, 96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Vĩnh Thùy V đối với ông Trần Trọng Q.

Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V được ly hôn với ông Trần Trọng Q. Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Vĩnh Thùy V và ông Trần Trọng Q chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 213; quyển số 01/2010, do UBND phường 5, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 19/8/2010 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao trẻ Trần Nguyễn Thiên Bảo, sinh ngày 18/10/2010 cho bà Nguyễn Vĩnh Thùy V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Q.

Ông Trần Trọng Q có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết; Riêng ông Q vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về tài sản chung, nợ chung.Trường hợp các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

4.Về án phí: Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0080926 ngày 29/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Vĩnh Thùy V đã nộp đủ án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo luật định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 623/2021/HNGĐ-ST ngày 25/06/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:623/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về