Bản án 622/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 622/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 20 và ngày 25 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 368/2012/TLST-HNGĐ ngày 10-8-2012 về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1551/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31-3-2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3996/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29-4-2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Bé N1, sinh năm 1984.

Cư trú tại: Portola Ave. Apt # 106, Livermore, CA 94551, USA.

Người đại diện hợp pháp (về phần tranh chấp tài sản): Ông Nguyễn Hữu H1, sinh năm 1983 (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm Văn Đ, thuộc Văn phòng Luật sư Minh Đạo – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Cùng địa chỉ: Đường H, Phường R, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Lê Hồng K, sinh năm 1969 (vắng mặt).

Thường trú: Đường T, Khu phố P, phường BTĐ , quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Trần Thị N2, sinh năm 1976 (vắng mặt).

Địa chỉ: Đường Đ, Khu phố P, phường B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1958 (vắng mặt).

Địa chỉ: Đường L, Khu phố P, phường B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Người làm chứng: Ông Phan Quang H3, sinh năm 1968 (vắng mặt). Địa chỉ: Đường T, Phường I, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07-5-2012 của nguyên đơn là bà Trần Bé N1 và những lời khai trong quá trình tố tụng của bà Nhi và người đại diện của bà Nhi về phần tranh chấp tài sản là ông Nguyễn Hữu H1 trình bày:

Bà Trần Bé N1 và ông Lê Hồng K chung sống với nhau trước năm 2004, sau đó thì đăng ký kết hôn tại UBND phường Bình Trị Đông và đã được UBND phường Bình Trị Đông cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 163, quyển số 01/2004 ngày 31-12-2004.

Sau khi đăng ký kết hôn, bà N1 và ông K chung sống có hạnh phúc. Đến tháng 02/2011, bà N1 và ông K xuất cảnh sang nước Hoa Kỳ sinh sống thì phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng không hàn gắn được, quan điểm sống giữa các bên không còn phù hợp và sau đó khoảng đầu năm 2012, ông K trở về Việt Nam sinh sống cho đến nay. Bà N1 không còn thương yêu ông K, bà N1 yêu cầu ly hôn ông K để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà N1 và ông K có hai người con chung tên: Lê Sơn N3 (nữ), sinh ngày 31-01-2003 và Lê Sơn T1 (nam), sinh ngày 09-9-2005. Bà N1 yêu cầu trực tiếp nuôi trẻ Lê Sơn N3 hiện nay đang ở với bà tại Hoa Kỳ, còn trẻ Lê Sơn T1 hiện nay đang ở với ông K tại Việt Nam thì bà giao cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng, bà và ông K không ai cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, theo lời bà N1 khai có các tài sản như sau:

* Nhà, đất căn nhà số 357/22/36 đường Tân Hòa Đông, khu phố 13, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân có diện tích khuôn viên 23,8m2 đất, thuộc thửa 322, tờ bản đồ số 42, Bộ địa chính phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân (trước đó là một phần thửa 705, tờ bản đồ số 08. Bộ địa chính xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, theo tài liệu 02/TC-UB).

* Phần diện tích đất Nông Nghiệp 36,8m2, thuộc thửa 523 (phân chiết từ thửa 116), tờ bản đồ số 82, Bộ địa chính phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, theo tài liệu năm 2005 (trước đó là một phần thửa 195, tờ bản đồ số 08. Bộ địa chính xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh, theo tài liệu 02/TC-UB) do ông Lê Hồng K và bà Trần Bé N1 sử dụng và đã được UBND quận Bình Tân cấp GCNQSDĐ số: H03737 ngày 09/7/2007 cho ông K, bà N1. Trên đất có xây cất căn nhà tạm mang số 357/22/49 đường Tân Hòa Đông, khu phố 13, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, hiện nay ông K đã chuyển mục đích sử dụng từ đất Nông Nghiệp sang đất Đô Thị.

* Thửa đất có diện tích 807m2 đất thuộc thửa 220, tờ bản đồ số 12, tạo lạc tại ấp 4, xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã được UBND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cấp GCNQSHNỞ&QSDĐỞ ngày 11/5/2010 (số: BB 624202, số vào sổ 00349).

- Tổng giá trị tài sản nêu trên bà N1 tạm tính là 4 tỷ đồng. Bà N1 yêu cầu ông K chia đôi toàn bộ giá trị tài sản trên cho bà và ông K mỗi người hưởng ½ giá trị tài sản.

Nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Lê Hồng K trình bày: Về thời gian đăng ký kết hôn, về mâu thuẫn vợ chồng và về con chung đúng như bà N1 trình bày. Ông đồng ý ly hôn bà N1 để ổn định cuộc sống và ông đồng ý trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T1, còn trẻ N2 ông giao cho bà N1 trực tiếp nuôi dưỡng, không ai cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, ông K trình bày như sau:

* Nhà, đất căn nhà số 357/22/36 đường Tân Hòa Đông nêu trên là tài sản riêng của ông có trước khi chung sống với bà N1. Ngày 04-4-2005, tại UBND phường Bình Trị Đông, bà N1 có Văn bản thừa nhận nhà, đất trên là tài sản riêng của ông và ông được UBND quận Bình Tân cấp GCNQSDĐ số: H00789 ngày 15-6-2005. Đến ngày 20-4-2012, tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn, ông đã làm Hợp đồng chuyển nhượng bán nhà, đất trên cho bà Trần Thị N2 với giá 350 triệu đồng. Nhà, đất là của ông, ông không đồng ý chia cho bà N1.

* Căn nhà tạm mang số 357/22/49 đường Tân Hòa Đông, khu phố 13, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân nêu trên (Chưa được cấp GCNQSHNƠ&QSDĐỞ) là tài sản riêng của ông có trước khi chung sống với bà N1, ông không đồng ý chia tài sản trên cho bà N1.

* Thửa đất có diện tích 807m2 đất thuộc thửa 220, tờ bản đồ số 12, tạo lạc tại ấp 4, xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa nêu trên là tài sản riêng của ông đã được bà N1 thừa nhận bằng Văn bản tại UBND phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân vào ngày 04-3-2010 là tài sản riêng của ông. Sau đó, ông làm thủ tục tách phần diện tích 807m2 đất trên ra làm thành hai thửa: Một thửa có diện tích 200m2 đất và một thửa có diện tích 607m2 đất và ông đã được UBND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cấp GCNQSHNỞ&QSDĐỞ sổ CH 00771 ngày 12-7- 2010 cho ông hai thửa đất này (hiện nay đất thuộc các thửa 944, tờ bản đồ số 12, tạo lạc tại ấp 4, xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Sau đó vào ngày 20-4-2012, tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn, ông đã lập hợp đồng chuyển các thửa đất trên cho ông Nguyễn Văn H2. Các thửa đất trên là tài sản riêng của ông đã được bà N1 thừa nhận, ông không đồng ý chia cho bà N1.

* Về nợ chung: Theo đơn yêu cầu phản tố của ông K ngày 12-9-2014, ông K trình bày như sau: ông yêu cầu bà N1 phải cùng ông thanh toán số tiền 441.425.000 đồng mà ông đã vay mượn nhiều người để lo chi phí cho sinh hoạt gia đình. Tuy nhiên sau đó, ông K rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố này.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

* Bà Trần Thị N2 trình bày: Ngày 20-4-2012, tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn, ông K đã lập Hợp đồng bán cho bà căn nhà số 357/22/36 đường Tân Hòa Đông, khu phố 13, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân. Bà mua nhà của ông K đúng theo quy định của pháp luật, bà không liên quan đến việc ông K, bà N1 ly hôn, bà yêu cầu vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án.

* Ông Nguyễn Văn H2 trình bày: Ngày 20-4-2012, tại Văn phòng Công chứng Chợ Lớn, ông K đã lập hợp đồng chuyển cho ông hai thửa đất: Một thửa có diện tích 200m2 đất và một thửa có diện tích 607m2 đất của ông K đã được UBND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cấp GCNQSHNỞ&QSDĐỞ sổ CH 00771 ngày 12-7-2010 (thuộc các thửa 944, tờ bản đồ số 12, tạo lạc tại ấp 4, xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Ông nhận chuyển nhượng đất của ông K đúng theo quy định của pháp luật, ông không liên quan đến việc ông K, bà N1 ly hôn, ông yêu cầu vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án.

Người làm chứng, ông Phan Quang H3 có lời trình bày: Tháng 9/2011, ông K có đưa ông số tiền 5000 USD nhờ ông chuyển giao cho mẹ ông K là bà Lê Kim C ở Hoa Kỳ và sau đó, ông đã giao số tiền trên cho bà C. Ông K, bà N1 ly hôn không liên quan đến ông, ông yêu cầu vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn là bà Trần Bé N1 có ông Nguyễn Hữu H1 đại diện và có Luật sư Phạm Văn Đ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn cùng trình bày: Bà N1 có yêu cầu đề nghị Tòa án chấp nhận cho bà được ly hôn ông Lê Hồng K để ổn định cuộc sống và chấp nhận cho bà trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Lê Sơn N3, còn trẻ Lê Sơn T1 thì giao ông K trực tiếp nuôi dưỡng, bà N1 và ông K không ai cấp dưỡng nuôi con. Đồng thời, bà N1 có yêu cầu đề nghị Tòa án cho bà rút lại toàn bộ yêu cầu tranh chấp phần tài sản chung là nhà, đất với ông K nêu trên.

Bị đơn là ông Lê Hồng K có đơn yêu cầu vắng mặt không tham gia phiên tòa và ông K đề nghị Tòa án chấp nhận những yêu cầu mà ông đã trình bày nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án. Về hình thức: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ đúng theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng Dân sự quy định về địa vị tố tụng, người tham gia tố tụng và các quyền lợi hợp pháp khác của các đương sự cho đến tại thời điểm kết thúc tranh luận. Về nội dung, Viện kiểm sát phân tích các chứng cứ và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Được ly hôn với bị đơn, được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Lê Sơn N3, còn trẻ Lê Sơn T1 thì giao cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng, nguyên đơn và bị đơn không ai cấp dưỡng nuôi con. Đồng thởi, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn về phần tranh chấp tài sản chung và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về phần nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe đương sự có mặt tại phiên tòa trình bày, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền, nguyên đơn là bà Trần Bé N1 đang cư trú tại nước ngoài khởi kiện ly hôn ông Lê Hồng K đang cư trú tại Việt Nam, theo quy định tại các Điều 28, 35, 37 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Trần Bé N1 có ông Nguyễn Hữu H1 đại diện, ông Lê Hồng K, bà Trần Thị N2, ông Nguyễn Văn H2, ông Phan Quang H3 có yêu cầu vắng mặt không tham gia phiên Tòa, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung (Điều 227, 228 BLTTDS năm 2015).

[3] Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 163, quyển số 01/2004 ngày 31-12-2004 của UBND phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân cấp cho bà Trần Bé N1 và ông Lê Hồng K thì hôn nhân giữa bà N1 và ông K là hôn nhân hợp pháp.

[4] Xét yêu cầu của bà Trần Bé N1 được ly hôn ông Lê Hồng K, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà N1 và ông K thì giữa các bên đã xảy ra nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà N1 yêu cầu ly hôn ông K để ổn định cuộc sống là phù hợp, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về con chung, có hai người con chung tên Lê Sơn N3 (nữ), sinh ngày 31-01-2003 và Lê Sơn T1 (nam), sinh ngày 09-9-2005, Bà N1 và ông K có cùng yêu cầu: Bà Nhi yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Ngọc, còn ông K thì trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Tài, bà N1 và ông K không ai cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy: Yêu cầu của bà N1, ông K phù hợp với nguyện vọng của trẻ N3 muốn theo mẹ và trẻ T1 muốn theo cha và phù hợp với quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về phần tài sản chung: Nguyên đơn là bà Trần Bé N1 có ông Nguyễn Hữu H1 đại diện và có Luật sư Phạm Văn Đ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có cùng lời trình bày: Bà N1 có yêu cầu đề nghị Tòa án chấp nhận cho bà rút lại toàn bộ yêu cầu tranh chấp phần tài sản chung là nhà, đất với ông K. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà N1 tranh chấp về phần tài sản chung.

[7] Về phần nghĩa vụ dân sự chung, ngày 12-9-2014, ông K có đơn phản tố: Yêu cầu bà N1 cùng ông có trách nhiệm thanh toán số tiền 441.425.000 đồng mà ông đã vay mượn nhiều người để lo chi phí cho sinh hoạt gia đình. Tuy nhiên sau đó, ông K rút lại toàn bộ yêu cầu phản tố này. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của ông K về phần tranh chấp nợ chung. Và không đưa những người mà ông K khai là ông đã vay tiền vào tham gia tố tụng.

Án phí Dân sự sơ thẩm, các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 28, 35, 37, 217, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng: Các Điều 51, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng: Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009. Áp dụng: Luật thi hành án dân sự.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Bé N1.

2. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Bé N1 được ly hôn ông Lê Hồng K.

Giấy chứng nhận kết hôn số 163, quyển số 01/2004 ngày 31-12-2004 của UBND phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Bé N1 và ông Lê Hồng K không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Về con chung: Có hai người con chung tên Lê Sơn N3 (nữ), sinh ngày 31-01-2003 và Lê Sơn T1 (nam), sinh ngày 09-9-2005.

3.1. Giao cho bà Trần Bé N1 trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục trẻ Lê Sơn N3 cho đến khi trẻ thành niên.

3.2. Giao cho ông Lê Hồng K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục trẻ Lê Sơn T1 cho đến khi trẻ thành niên.

3.3. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho bà N1 và ông K, bởi bà N1 và ông K không ai yêu cầu.

* Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

* Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

* Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu theo quy định tại Điều 84 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

4. Về tài sản chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Trần Bé N1 do bà N1 rút yêu cầu tranh chấp về phần tài sản chung.

5. Về nghĩa vụ dân sự chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của ông Lê Hồng K do ông K rút yêu cầu tranh chấp về phần nợ chung.

6. Án phí Dân sự sơ thẩm: Bà N1 chịu 200.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền bà N1 đã đóng tạm ứng án phí 200.000 đồng theo biên lai thu số AG/2010/03881 ngày 07-8-2012 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

6.1. Hoàn lại cho bà N1 số tiền 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng) của bà N1 đã đóng tạm ứng án phí (tranh chấp tài sản chung) theo biên lai thu số AG/2010/04014 ngày 24-8-2012 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

6.2. Hoàn lại cho ông K số tiền 5.414.250 đồng (Năm triệu bốn trăm mười bốn nghìn hai trăm năm mươi đồng) của ông K đã đóng tạm ứng án phí (tranh chấp nợ chung) theo biên lai thu số AG/2010/08078 ngày 19-01-2015 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Thi hành án tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

9. Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 622/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:622/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về