Bản án 62/2021/HS-PT ngày 05/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 62/2021/HS-PT NGÀY 05/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử công khai phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 69/2021/TLPT-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 do có kháng cáo của bị cáo Tô Ngọc T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 16/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Tô Ngọc T, sinh năm 1972; ĐKNKTT: Số 2/122 đường 19/5, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; chỗ ở hiện nay: Xóm Đ, xã N, thành phố N tỉnh Nam Định; Quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; học vấn: 4/12; con ông Tô Ngọc H, đã chết; con bà Trần Thị M, sinh năm 1938; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 28/9/2017 TAND thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định phạt 2 năm 3 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; nhân thân: Ngày 12/5/1994 bị TAND tỉnh Nam Hà xét xử phúc thẩm tuyên phạt 9 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân” và 03 tháng tù về tội: “Cưỡng đoạt tài sản của công dân”; Ngày 11/03/1995 bị TAND thành phố Nam Định xử phạt 9 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 24/9/1996 bị TAND Tối cao xử phúc thẩm xử phạt 3 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 22/9/1999 bị TAND thành phố Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội; “Trộm cắp tài sản của công dân”; Ngày 03/8/2004 bị TAND thành phố Nam Định xử phạt 7 năm 6 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 14/01/2021, Tô Ngọc T đi xe mô tô nhãn hiệu Dream BKS 18Z - 8670 đến quán phở của gia đình anh Nguyễn Văn S, ở xã N huyện N, tỉnh Nam Định, trong lúc ngồi chờ tại bàn uống nước của quán thì bị lực lượng Công an xã Nam Mỹ làm nhiệm vụ tuần tra an ninh, trật tự kiểm tra hành chính. Khi bị kiểm tra, T dùng tay phải lấy trong túi quần phía sau bên phải 01 (một) túi nilon màu trắng ném xuống nền hiên nhà anh S tại vị trí T đang đứng. Lực lượng Công an đã tiến hành mở gói nilon màu trắng để kiểm tra, bên trong có 02 túi nilon màu trắng khác, mỗi túi có đựng 04 túi nilon nhỏ màu trắng có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng được niêm phong và ký hiệu là M. Ngoài ra thu giữ của Tô Ngọc T 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream BKS 18Z9 - 8670, 01 bật lửa khò, 01 ống kim loại.

Khám xét nơi ở của Tô Ngọc T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Trực thu giữ 02 cóng thủy tinh trên ngăn kéo tủ trong phòng ngủ của T.

Tại Bản kết luận giám định số 72/GĐKTHS ngày 14/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu các hạt tinh thể rắn màu trắng trong 08 (tám) gói nhỏ nilon được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine; tổng trọng lượng mẫu M: 1,211 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Tô Ngọc T không thừa nhận hành vi tàng trữ 08 gói Methamphetamine có trọng lượng 1,211 gam đã thu giữ tại nơi vị trí bị cáo đứng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Tô Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự (BLHS). Xử phạt bị cáo Tô Ngọc T 36 tháng tù (ba mươi sáu tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 14-01-2021.

Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 27/4/2021 bị cáo Tô Ngọc T kháng cáo kêu oan, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Tô Ngọc T vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Bị cáo không thừa nhận số ma túy đã thu gữ là của bị cáo nên bị cáo không có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của bị cáo Tô Ngọc T là hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở giai đoạn sơ thẩm đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Mức hình phạt 36 tháng tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Ngọc T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Tô Ngọc T làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo Tô Ngọc T, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại giai đoạn sơ thẩm Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Trực, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Trực, Kiểm sát viên đã được thực hiện theo đúng quy định của BLTTHS; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, mặc dù Tô Ngọc T không thừa nhận hành vi tàng trữ Methamphetamine. Tuy nhiên căn cứ vào lời khai của những người làm chứng là ông Trần Đức V; ông Nguyễn Văn S; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 14/01/2021; kết quả kiểm tra nhanh nước tiểu của bị cáo sau khi bị bắt thì bị cáo dương tính với Methamphetamine cũng như căn cứ vào bản kết luận giám định số 72/GĐKTHS ngày 14/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định thì có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 14/01/2021 tại quán phở gia đình anh Nguyễn Văn S ở xã N, huyện N, tỉnh Nam Định, Công an xã Nam Mỹ phát hiện, bắt quả tang Tô Ngọc T đang có hành vi tàng trữ trái phép 8 gói nhỏ Methamphetamine với tổng trọng lượng là 1,211 gam. Hành vi nêu trên của Tô Ngọc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ ma túy là chất do nhà nước độc quyền quản lý nhưng vẫn cố ý thực hiện. Mặt khác bị cáo là đối tượng nhiều lần bị Tòa án xét xử, sau những lần vi phạm bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục có những hành vi coi thường và vi phạm pháp luật. Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo HĐXX nhận thấy Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội, không oan. Mức hình phạt 36 tháng tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp, bổ sung tài liệu, chứng cứ và không có tình tiết mới gì. Việc kháng cáo kêu oan của bị cáo là không có căn cứ.

[3] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, cần căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 BLTTHS: Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Tô Ngọc T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 BLTTHS. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Ngọc T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Tuyên bố bị cáo Tô Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Khoản 2 Điều 136 của BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Xử phạt bị cáo Tô Ngọc T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14-01-2021.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí: Bị cáo Tô Ngọc T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2021/HS-PT ngày 05/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về