Bản án 62/2021/DS-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 62/2021/DS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 93/2021/TLST-DS ngày 13 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil giữa các đương sự:

*/ Nguyên đơn: bà Trần Thị Thúy H, Địa chỉ: thôn ĐA, xã T, huyện M, tỉnh Đắk Nông. (Có mặt)

*/ Bị đơn: bà Trần Thị B, ông Phạm Văn C; Địa chỉ: thôn TS, xã T, huyện M, tỉnh Đắk Nông. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời khai của nguyên đơn trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bà Trần Thị Thúy H trình bày: Ngày 10/01/2018 bà có cho ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B vay số cà phê nhân là 750 kg và 7.400.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 2%/tháng, hẹn thời hạn thanh toán là cuối năm 2019 sẽ trả số tiền và cà phê trên nhưng đến nay đã năm 2021 ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B vẫn chưa trả cho bà bất kỳ số cà phê nào, với số tiền 7.400.000 đồng, vào cuối năm 2019 ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B đã trả cho bà được số tiền 2.000.000 đồng khi trả không nói trả vào tiền gốc hay lãi nhưng bà trừ vào số tiền gốc. Nay bà yêu cầu ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B trả cho bà số tiền 5.400.000 đồng (Năm triệu bốn trăm nghìn đồng) và 750 kg cà phê nhân xô.

2. Trong quá trình tố tụng - Bị đơn bà Trần Thị B vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án 3. Trong quá trình tố tụng - Bị đơn ông Phạm Văn C trình bày trong quá trình điều tra: Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thúy H ông thừa nhận vợ chồng ông bà còn nợ bà Trần Thị Thúy H số tiền 5.400.000 đồng (Năm triệu bốn trăm nghìn đồng) và 750 kg cà phê nhân xô, ông Phạm Văn C xin bà Trần Thị Thúy H được trả dần ngày 25/12/2021 trả 15.000.000 đồng và ngày 25/12/2022 trả 14.100.000 đồng nhưng bà Trần Thị Thúy H không đồng ý.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn bà Trần Thị B, ông Phạm Văn C đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 163, Điều 466, Điều 466 của của Bộ luật Dân sự năm 2015. Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thúy H, buộc bị đơn ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải trả cho bà Trần Thị Thúy H 750kg cà phê nhân xô và 5.400.000 đồng.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn bà Trần Thị Thúy H khởi kiện yêu cầu ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải trả tiền và cà phê nhân, phát sinh tranh chấp từ hợp đồng dân sự vay tài sản theo Điều 463 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng vay tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B có địa chỉ tại thôn TS, xã T, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông thụ lý và giải quyết là đúng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về sự vắng mặt của bị đơn: ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Việc ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B không hợp tác để giải quyết vụ án, việc vắng mặt tại Tòa án mà không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để tiến hành giải quyết, xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định. Theo khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Như vậy, ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải chịu hậu quả về việc không đưa ra được và không đưa ra đủ chứng cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Xét hợp đồng vay tài sản (cà phê, tiền) giữa bà Trần Thị Thúy H và ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B là có thật được thể hiện qua giấy vay mượn tiền, cà phê ngày 10/01/2018 và có chữ ký xác nhận của ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án là bản gốc. Xét thỏa thuận của các bên được xác lập trên cơ sở tự nguyên, hình thức và nội dung không trái quy định của pháp luật theo Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thúy H yêu cầu ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải trả 750 kg (Bảy trăm năm mươi tư ki lo gam) cà phê nhân xô và 5.400.000 đồng thì việc vay tiền và cà phê giữa bà Trần Thị Thúy H với ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B là có thật, được các bên thừa nhận và không trái pháp luật. Việc ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B không trả đúng hẹn là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015:

Khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự quy định:

“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Do đó có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thúy H đối với bị đơn ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B về nghĩa vụ trả 750 kg (Bảy trăm năm mươi tư ki lô gam) cà phê nhân xô và 5.400.000 đồng (Năm triệu bồn trăm nghìn đồng).

[3] Về án phí: Theo biên bản xác minh ngày 30/6/2021 giá cà phê nhân xô là 36.200 đồng/kg x 750 kg = 27.150.000 đồng + 5.400.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 1.627.500 đồng. Trả lại cho bà Trần Thị Thúy H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 777.500 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 463, Điều 466 của của Bộ luật Dân sự năm 2015. Áp dụng khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Thúy H đối với bị đơn ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B.

1. Buộc ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải trả cho bà Trần Thị Thúy H 750 kg (Bảy trăm năm mươi ki lô gam) cà phê nhân xô và 5.400.000 đồng (Năm triệu bốn trăm nghìn đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền nợ gốc, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Buộc ông Phạm Văn C, bà Trần Thị B phải nộp 1.627.500 đồng (Một triệu sáu trăm hai mươi bảy nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho bà Trần Thị Thúy H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 777.500 đồng (Bảy trăm bảy mươi bảy nghìn năm trăm đồng) đã nộp theo biên lai số 0004973 ngày 08/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Đắk Nông.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2021/DS-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:62/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về