Bản án 62/2021/DS-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 62/2021/DS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 302/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2021/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Hộ kinh doanh T; địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu; đại diện Hộ kinh doanh: Ông Lê Xuân H, sinh năm 1990; người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1995; địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T; cùng địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/11/2020 và trong quá tr nh t t ng t i Tòa án đ i diện theo ủy quyền của nguyên đơn Hộ kinh doanh T là chị Lê Thị Ngọc Thu trình bày: Vào năm 2013, ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T có mua thức ăn nuôi tôm công nghiệp tại Hộ kinh doanh T. Việc mua bán diễn ra nhiều lần, ông P có mua hàng và trả tiền nhưng trả tiền không đầy đủ. Trong quá trình giao dịch, ông P là người trực tiếp đến cửa hàng mua thức ăn, khi giao nhận hàng ông P có ký vào sổ theo dõi.

Đến ngày 26/5/2014, hai bên ngừng mua bán, qua đối chiếu thì ông P, bà T còn nợ Hộ kinh doanh T 45.683.000 đồng, ngày 31/7/2020 ông P, bà T có ký vào “Bảng đối chiếu xác nhận công nợ” thừa nhận số nợ trên.

Từ khi ký xác nhận nợ cho đến nay, ông P, bà T không trả nợ cho Hộ kinh doanh T. Nay Hộ kinh doanh T yêu cầu ông P, bà T có trách nhiệm trả tiền mua thức ăn nuôi tôm còn thiếu là 75.258.00 đồng (tiền gốc 45.683.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 26/5/2014 đến ngày 26/11/2020 là 29.575.000 đồng (45.683.000 đồng x 0.83% x 78 tháng = 29.575.000 đồng).

Bị đơn ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cũng như triệu tập ông P, bà T tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng ông P, bà T vắng mặt không rõ lý do, nên không có lời khai của ông P và bà T.

Phát biểu của Kiểm sát viên t i phiên tòa sơ thẩm:

Về thủ t c t t ng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Hộ kinh doanh T yêu cầu ông P, bà T trả tiền mua thức ăn nuôi tôm 75.258.00 đồng (tiền gốc 45.683.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 26/5/2014 đến ngày 26/11/2020 là 29.575.000 đồng (45.683.000 đồng x 0.83% x 78 tháng = 29.575.000 đồng). Ông P, bà T có ký tên vào “Bảng đối chiếu công nợ” ngày 31/7/2021 thừa nhận số nợ trên. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh T là phù hợp. Án phí dân sự sơ thẩm ông P, bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của đương sự, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Hộ kinh doanh T khởi kiện ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T yêu cầu trả tiền nợ thức ăn nuôi tôm; ông P, bà T có địa chỉ tại ấp B, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đây là vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

[2]. Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Lê Thị Ngọc Thu có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.

[3]. Về nội dung: Hộ kinh doanh T khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T trả 75.258.00 đồng (tiền gốc 45.683.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 26/5/2014 đến ngày 26/11/2020 là 29.575.000 đồng (45.683.000 đồng x 0.83% x 78 tháng = 29.575.000 đồng). Ông P, bà T có ký tên vào “Bảng đối chiếu xác nhận công nợ” ngày 31/7/2021 thừa nhận số 45.683.000 đồng. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử công nhận là sự thật và buộc ông P, bà T có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh T số tiền 45.683.000 đồng.

[4]. Về yêu cầu ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T trả tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 26/5/2014 đến ngày 26/11/2020 số tiền 29.575.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, tại khoản 2 và khoản 3 Điều 440 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“….Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tài sản.

Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa và trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”

Đối chiếu với quy định trên thấy rằng: Ngày 31/7/2020 ông P và bà T có ký biên nhận thừa nhận còn thiếu Hộ kinh doanh T số tiền 45.683.000 đồng. Từ khi ký nhận nợ cho đến nay ông P, bà T không trả tiền nên Hộ kinh doanh T yêu cầu trả tiền lãi chậm trả là có căn cứ. Mức lãi suất yêu cầu 0.83%/01 tháng là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, thời gian chậm trả từ ngày 26/5/2014 đến ngày 26/11/2020 là 78 tháng số tiền 45.683.000 đồng x 0.83%/01 tháng x 78 tháng = 29.575.000 đồng.

Tổng số tiền ông P, bà T có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh T là 75.258.000 đồng.

[5]. Án phí dân sự sơ thẩm 3.762.900 đồng (75.258.000đ x 5%), do yêu cầu của Hộ kinh doanh T được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên ông P và bà T phải có nghĩa vụ nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[6]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự ; các Điều 430 và 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh T đối với ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T.

Buộc ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T có nghĩa vụ trả cho Hộ kinh doanh T số tiền 75.258.00 đồng (tiền gốc 45.683.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 26/5/2014 đến ngày 26/11/2020 là 29.575.000 đồng.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị T có nghĩa vụ nộp 3.762.900 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

Hoàn trả cho Hộ kinh doanh T tiền tạm ứng án phí 1.881.000 đồng đã nộp ngày 07/12/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008181.

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền th a thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2021/DS-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:62/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về