Bản án 62/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020, quyết định hoãn phiên tòa số 41/2020/HSST-QĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Văn X - sinh năm 1966, tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT, tỉnh HD; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 5/7; Con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Cao Thị Ch (đã chết); có vợ: Trần Thị Kh - sinh năm 1966, có 3 con, con lớn nhất sinh năm 1989, con nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: không. Hiện bị cáo đang bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 30/3/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Nguyễn Văn P - sinh năm 1969

Trú tại: Thôn Dưỡng M, xã Ngũ Ph, huyện KT, tỉnh HD. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Thị Kh - sinh năm 1966

Trú tại: Thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT, tỉnh HD.

2. Chị Vũ Thị H - sinh năm 1972

Trú tại: Thôn Dưỡng M, xã Ngũ Ph, huyện KT, tỉnh HD.

Đều có mặt.

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Hải Th - sinh năm 1955, vắng mặt

Trú tại: Thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT, tỉnh HD.

- Anh Nguyễn Hồng Th - sinh năm 1984, vắng mặt

Trú tại: Thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT, tỉnh HD.

- Cháu Nguyễn Xuân Th - sinh năm 2005, vắng mặt

Trú tại: Thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT, tỉnh HD.

Người đại diện hợp pháp cho cháu Tháp: Bà Trần Thị Kh - sinh năm 1966,

Trú tại: Thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT, tỉnh HD (là mẹ đẻ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 23/01/2020, Nguyễn Văn X đang ở nhà thì nhìn thấy em trai là anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1969, trú tại Dưỡng M, Ngũ Ph, KT đi vào nhà bố mẹ đẻ đã chết là ông Nguyễn Văn Đ và bà Cao Thị Ch (nhà giáp bên cạnh là X) để thắp hương. Do trước đó đã có mâu thuẫn với anh P trong việc ruộng đất và tiền của bố mẹ khi chết để lại nên X đi bộ một mình sang nhà ông Đ gặp P, X nói “thế làm sao tiền một trăm triệu đồng mười năm nay, ruộng mày cấy, tiền ruộng bán của ông bà mày lấy mày ăn, mày không chia cho tao”, sau đó giữa X và anh P lời qua tiếng lại, to tiếng cãi nhau. Ngay lúc đó do bực tức, X đi về gian bếp nhà mình lấy một con dao bầu dài 33cm, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 22 cm, bản lưỡi rộng nhất 6,3cm, loại một lưỡi sắc, cán bằng gỗ màu nâu đen dài 11cm rồi đi sang nhà ông Đ. Lúc này anh P đang đứng ở góc sân phía bên trái (theo hướng từ cổng vào), X đi đến đứng đối diện cách anh P khoảng 1m và nói “giờ mày muốn gì”, sau đó X và anh P tiếp tục lời qua tiếng lại, thấy tay phải X cầm dao anh P dùng tay giữ tay X, X và anh P giằng co, X vung dao đâm một nhát trúng vào phần trên cánh tay phải của anh P, rồi tiếp tục dơ dao định đâm anh P thì anh P bị trượt chân ngã ra sân, X dùng dao đâm trúng vào vùng mặt ngoài đùi trái, lúc này anh P chống tay xuống sân để đứng dậy thì X cầm dao đâm tiếp một nhát trúng vào mạn sườn bụng bên trái anh P, anh P đứng dậy ôm bụng bỏ chạy vòng qua vườn sang nhà anh Nguyễn Hải Th, sinh năm 1955 ở phía trước giáp vườn nhà ông Đ. Thấy anh P bỏ chạy X cầm dao đi về nhà và để tại bàn bếp của gia đình. Hậu quả: Anh P bị thương được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Kim Thành, sau đó điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương từ ngày 23/01/2020 đến ngày 31/01/2020, tại Bệnh viện trung ương quân đội 108 từ ngày 31/01/2020 đến ngày 07/02/2020 và từ ngày 06/4/2020 đến ngày 14/4/2020. Tại Bệnh án của Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, Bệnh viện trung ương quân đội 108 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, xác định: Anh P có vết thương thành bụng ở hạ sườn trái kích thước khoảng 7cm đứt 3 xương sườn VIII, IX, X vào ổ bụng gây thủng đại tràng ngang, thủng ruột non cách góc tred 1m2, rách mạc nối lớn chảy máu; vết thương vùng mặt sau ngoài 1/3 trên cánh tay phải; vùng mặt ngoài đùi trái có vết thương kích thước khoảng 10cm lóc da cơ ra phía sau. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 69%. Các tổn thương có đặc điểm do vật nhọn sắc gây ra, anh P bị người khác dùng con dao bầu mà Công an huyện Kim Thành mô tả gây ra tổn thương là phù hợp.

Ngày 23/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành quản lý của cháu Nguyễn Xuân Th, sinh năm 2005, trú tại: Thiện Đ, Kim X, KT (là con Nguyễn Văn X) con dao có đặc điểm như trên.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn X khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 42/CT-VKS ngày 13/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn X về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn X phạm tội cố ý gây thương tích. Áp dụng: Điểm d khoản 4 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn X từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 30/3/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Anh P yêu cầu bị cáo X phải bồi thường tiền viện phí và tiền thuốc là 66.117.000 đồng; tiền thuê xe đi lại trong quá trình điều trị là 7.000.000 đồng; tiền bồi thường tổn thất về tinh thần là 40.230.000 đồng, tiền công nghỉ không làm việc được 50.000.000 đồng. Tổng số tiền người bị hại yêu cầu là 163.347.000 đồng, bị cáo đã bồi thường 25.000.000 đồng nên còn phải bồi thường số tiền 138.347.000 đồng. Tại phiên toà bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền 138.347.000 đồng cho người bị hại nên ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận này giữa bị cáo và người bị hại, buộc bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường số tiền 138.347.000 đồng cho người bị hại là anh Nguyễn Văn P.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 con dao. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn X phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định.

Bị cáo Nguyễn Văn X khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn X tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ được. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng hơn 07 giờ ngày 23/01/2020, tại thôn Thiện Đ, xã Kim X, huyện KT. Do mâu thuẫn từ trước, Nguyễn Văn X đã có hành vi dùng con dao bầu bằng kim loại (là hung khí nguy hiểm) đâm vào vùng mặt sau ngoài 1/3 trên cánh tay phải, mặt ngoài đùi trái và thành bụng hạ sườn trái của anh Nguyễn Văn P gây tổn thương cơ thể là 69%. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi gây thương tích cho người khác là trái pháp luật, nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn X phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 4 điều 134 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến thân thể sức khoẻ của người khác, làm mất trật tự trị an xã hội. Chỉ vì mâu thuẫn trong gia đình, bị cáo đã gây thương tích cho anh P chính là em ruột của bị cáo nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng, về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền 25.000.000 đồng cho anh P, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Đ được Hội đồng bộ trưởng tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, Hội đồng chính phủ tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải có hình phạt nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn P yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổng số tiền là 163.347.000 đồng, bao gồm: Tiền viện phí và tiền thuốc là 66.117.000 đồng, tiền thuê xe đi lại trong quá trình điều trị là 7.000.000 đồng, tiền bồi thường tổn thất về tinh thần là 40.230.000 đồng, tiền công nghỉ không làm việc được 50.000.000 đồng. Bị cáo X đã bồi thường là 25.000.000 đồng nên còn phải bồi thường số tiền 138.347.000 đồng. Xét thấy bị cáo gây thiệt hại cho anh P là hoàn toàn có lỗi, vì vậy bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh P theo quy định tại Điều 584, 586, 590 của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên tại phiên toà bị cáo X tự nguyện bồi thường theo yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự của anh P. Xét thấy yêu cầu của anh P là hợp pháp và chính đáng, bị cáo X chấp nhận toàn bộ yêu cầu về bồi thường trách nhiệm dân sự là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận sự tự nguyện giữa bị cáo và anh P về việc bị cáo X phải bồi thường toàn bộ về trách nhiệm dân sự cho anh P với tổng số tiền 138.347.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự.

[6] Đối với tiền công người chăm sóc: Tại phiên toà anh P và chị H xác định số tiền công người chăm sóc anh P trong quá trình điều trị thương tích là 19.500.000 đồng, là khoản tiền thu thập thực tế của chị H là vợ anh P bị mất do nghỉ làm để chăm sóc anh P. Nay anh P và chị H đều tự nguyện không yêu cầu khoản tiền này, chị H và anh P xác định cho bị cáo nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về các biện pháp tư pháp: Đối với 01 con dao bầu xác định là tài sản chung của bị cáo X và chị Kh. Chị Kh không biết X dùng dao để phạm tội và chị xác định con dao không còn giá trị sử dụng nên chị có đề nghị cho tiêu huỷ. Xét thấy con dao là vật chứng của vụ án và là công cụ bị cáo dùng để phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu huỷ.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết luận phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 4 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, 585, 586, 590, 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn X phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn X 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 30/3/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận bồi thường toàn bộ về trách nhiệm dân sự giữa bị cáo X và anh P: Bị cáo Nguyễn Văn X phải bồi thường toàn bộ về trách nhiệm dân sự cho anh Nguyễn Văn P - sinh năm 1969, trú tại: Thôn Dưỡng M, xã Ngũ Ph, huyện KT, tỉnh HD với tổng số tiền là 138.347.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

4. Về các biện pháp tư pháp: Tịch thu cho tiêu hủy 01 con dao bầu.

(Vật chứng được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, có đặc điểm theo như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 19/8/2020 giữa Công an huyện Kim Thành và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành).

5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn X phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 6.917.350 đồng án phí dân sự.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đnh tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:62/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về