Bản án 62/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

ng Văn L, sinh ngày 08/9/1995 tại tỉnh Điện Biên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn C, xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn Th, sinh năm 1976 và bà Lường Thị I, sinh năm 1977; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2020 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa: Ông Bế Quang H – Luật sư Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Vũ Văn H1, anh Nguyễn Quốc M1. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 05 phút, ngày 03/01/2020, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng Sở Tài chính thuộc đường Thân Thừa Q, phường V, thành phố L1, tỉnh Lạng Sơn phát hiện Lường Văn L có biểu hiện nghi vấn phạm tội ma túy, đã tiến hành kiểm tra thu giữ của Lường Văn L 01 gói giấy ăn, bên trong có 01 gói gấy màu trắng đỏ, bên trong nữa là gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy và 200.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 51/KL-PC09 ngày 04/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,112 gam (đã trừ bì).

Tại Kết luận giám định số 47/KL-PC09 ngày 06/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Toàn bộ số tiền 200.000 đồng niêm phong gửi giám định đều là tiền thật.

Tại Cơ quan điều tra, Lường Văn L khai nhận: Lường Văn L sử dụng ma túy từ năm 2018 đến nay. Tháng 01/2019, Lường Văn L lên thành phố Lạng Sơn làm thuê. Khoảng 11 giờ ngày 03/01/2020, Lường Văn L đi bộ đến ngã tư đường Ng - Quốc lộ 01A hỏi một người đàn ông đi xe ôm ở gần đó chỗ mua ma túy. Người đàn ông đi xe ôm chờ Lường Văn L đến một quán nước vỉa hè đường Lê Lợi thuộc phường V thành phố Lạng Sơn gặp một nam thanh niên đang ngồi uống nước. Lường Văn L đưa cho người lái xe ôm 100.000 đồng để đưa cho nam thanh niên. Người nam thanh niên đi khoảng 30 phút thì quay lại đưa cho Lường Văn L 01 gói bọc bên ngoài là giấy ăn rồi đi luôn. Lường Văn L cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái đi tìm nơi sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ.

Tại Cáo trạng số 66/CT-VKS-MT ngày 31/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lường Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi như trong cáo trạng là đúng với hành vi phạm tội các bị cáo đã thực hiện.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lường Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lường Văn L từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/01/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy sau giám định; trả lại bị cáo số tiền 200.000 đồng.

Ý kiến của người bào chữa tại phiên tòa: Khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,112 gam thuộc mức khởi điểm tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Điện Biên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức nhẹ nhất của khung hình phạt.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, do đó có đủ căn cứ xác định: Ngày 03/01/2020, tại khu vực trước cổng Sở Tài chính thuộc đường Thân Thừa Q, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Lường Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 0,112 gam chất ma túy Heroine để sử dụng.

[2] Căn cứ vào Kết luận giám định số 51/KL-PC09 ngày 04/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lường Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tại phiên tòa bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại khu vực đặc biệt khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh, bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; Số tiền 200.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[10] Đối với người đàn ông đi xe ôm chở bị cáo đi mua ma túy và nam thanh niên bán ma túy cho bị cáo do không biết rõ họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[11] Về hành vi, quyết định tố tụng và về việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và việc thu thập chứng cứ, tài liệu của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Lạng Sơn cơ bản là có căn cứ chấp nhận, riêng mức đề nghị hình phạt là hơi cao so với tình chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt dưới mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[13] Ý kiến của người bào chữa về tội danh, hình phạt đối với bị cáo và các nội dung khác là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[15] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lường Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lường Văn L 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03/01/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; trả lại bị cáo số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

(Vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Lường Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

544
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về