Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 176/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2020/QĐXX - ST ngày 22 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Doãn S - Sinh năm 1979 “ Có mặt”

Bị đơn : Chị Lê Thị V - Sinh năm 1979 “ Có mặt”

Cùng địa chỉ: Phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Doãn S trình bày:

Anh và chị Lê Thị V kết hôn với nhau vào ngày 07 tháng 01 năm 1999 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường Đ, Thành phố T. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 02 năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng có những suy nghĩ trái ngược nhau, quan điểm trong cuộc sống luôn bất dồng, mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình và bạn bè hòa giải nhưng không mang lại kết quả. Nay anh S xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê Thị V.

Về con: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Doãn T sinh ngày 16/6/2000 (đã thành niên) và cháu Nguyễn Doãn L sinh ngày 09/10/2006, tại đơn khởi kiện anh S đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu L cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên qua hòa giải cũng như tại phiên tòa anh S đồng ý giao cháu L cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra quyết định cho đến khi cháu L thành niên.

Về tài sản, công nợ: Anh S yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng là nhà đất tại thửa số 140, tờ bản đồ số 01, diện tích 196,11m2, tại Ái Sơn I, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Nguồn gốc đất là do bố mẹ anh cho vợ chồng và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 752923, do UBND thành phố Thanh Hóa cấp ngày 07/5/2015. Anh S đề nghị Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng mỗi người được hưởng ½ diện tích đất, giao cho chị V phần đất đã có nhà cấp 4 khép kín và toàn bộ tài sản ( Giường, tủ, bàn ghế cùng toàn bộ tài sản đồ dùng sinh hoạt khác), anh S được hưởng phần đất trống.

Tuy nhiên ngày 04/8/2020 anh S có đơn xin rút yêu cầu phân chia tài sản chung để anh chị tự thỏa thuận thương lượng với nhau, anh S chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân và nuôi con theo quy định của pháp luật.

Bị đơn chị Lê Thị V trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn chị V đồng ý như anh S trình bày. Trong quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì nhưng do anh S có quan hệ với người khác rồi về chửi bới đánh đập chị rồi đòi ly hôn, anh chị đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2019. Nay anh S làm dơn xin ly hôn chị V mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Nhưng nếu anh S cương quyết thì chị cũng đồng ý ly hôn.

Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Doãn T, sinh ngày 16/6/2000(đã thành niên), cháu Nguyễn Doãn L sinh ngày 17/11/2006. Chị V đề nghị được nuôi dưỡng cháu L, anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày Tòa án ra quyết định cho đến khi cháu L thành niên.

Về tài sản: Vợ chồng có một khối là tài sản chung là 1 căn nhà cấp 4 nằm trên diện tích đất 196,11m2, nguồn gốc đất là của bố chồng chị cho hai vợ chồng. Trên mảnh đất này đã xây nhà cấp 4 với diện là 85m2. Nay ly hôn, chị V đề nghị Tòa án giải quyết chia làm 4 phần: gồm chị, anh S và hai con.

Tại phiên tòa hôm nay, do anh S rút yêu cầu phân chia tài sản chung, chị V không có ý kiến gì thêm.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh S và chị V sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn là thực tế, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được. Nay anh S có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Anh Sơn và chị V có 02 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Ngày 04/8/2020 anh S có đơn xin rút yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng để anh chị tự thỏa thuận thương lượng với nhau, tại phiên tòa anh S vẫn giữ nguyên yêu cầu rút phân chia tài sản, anh S chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân và nuôi con theo quy định của pháp luật. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ đối với yêu cầu này, theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Doãn S và chị Lê Thị V kết hôn với nhau năm 1999 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, anh S xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân, anh S tha thiết xin được ly hôn. Chị V xác định vợ chồng cũng có mâu thuẫn, do anh S có quan hệ bất chính với người khác, nhưng chị mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nếu anh S cương quyết ly hôn thì chị V cũng đồng ý ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện hiện: Trong quá trình anh S và chị V chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn và hiện nay anh chị đã sống ly thân.

Xét mâu thuẫn giữa anh S và chị V đã đến mức trầm trọng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh S được ly hôn chị V là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng 2 con chung là cháu Nguyễn Doãn T, sinh ngày 16/6/2000(đã thành niên), cháu Nguyễn Doãn L sinh ngày 17/11/2006. Anh S và chị V thống nhất giao cháu L cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày Tòa án ra quyết định cho đến khi cháu L thành niên;

Xét thỏa thuận về nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con của các đương sự phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản và nợ chung: Anh Nguyễn Doãn S rút yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng, chị V không có yêu cầu phản tố, nên HĐXX đình chỉ yêu cầu phân chia tài sản theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, anh S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 244; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Doãn S được ly hôn chị Lê Thị V.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Doãn T, sinh ngày 16/6/2000(đã thành niên)và cháu Nguyễn Doãn L sinh ngày 17/11/2006 là con chung của anh S và chị V. Giao cháu Nguyễn Doãn L cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng; Anh Nguyễn Doãn S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng)/tháng; thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 8 năm 2020 cho đến khi cháu L thành niên.

Anh Nguyễn Doãn S có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Đình chỉ xét xử sơ thẩm đối với yêu cầu phân chia tài sản và công nợ chung của vợ chồng, do anh Nguyễn Doãn S đã rút yêu cầu.

Án phí: Anh Nguyễn Doãn S phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh S đã nộp 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số AA/2018/0000976 ngày 07/5/2020 và số tiền 4.320.000đ (Bốn triệu ba trăm hai mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2018/0000977 ngày 07/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa. Anh S được nhận lại số tiền 4.020.000đ ( Bốn triệu, không trăm hai mươi ngàn đồng).

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về