Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 119/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Ngọc H, sinh năm 1998; địa chỉ: Số nhà 71, tổ 2, khu phố 6, phường Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có mặt

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh Tiến, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ 1, khu phố 5, phường Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 4 năm 2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc H trình bày:

Bà Phan Thị Ngọc H và ông Nguyễn Minh Tiến tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2015. Bà H và ông Tiến đăng ký kết hôn tại UBND xã (nay là phường) Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 41/2016, ngày 06-06-2016. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ông Tiến không chăm lo làm ăn, theo bạn bè tụ tập lêu lỏng. Vợ chồng và gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải để vợ chồng tiếp tục chung sống và chăm lo cho con nhưng không có kết quả. Đến khoảng tháng 03-2019, bà H và ông Tiến không còn sống chung với nhau, ông Tiến ở nhà cha mẹ ruột tại tổ 1, khu phố 5, phường Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Bà H cùng con về sinh sống tại nhà cha mẹ ruột ở địa chỉ số nhà 71, tổ 2, khu phố 6, phường Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống, vợ chồng bà H và ông Tiến có với nhau một con chung tên Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 16-12-2015. Hiện tại, cháu Hân đang sinh sống cùng bà H. Từ khi bà H và ông Tiến không còn chung sống cùng nhau, bà H một mình nuôi dưỡng và chăm sóc con chung, ông Tiến không thăm nom, cấp dưỡng nuôi con, không làm tròn trách nhiệm của một người chồng, người cha.

Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Tiến, yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 16-12-2015 và không yêu cầu ông Tiến cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con chung với bị đơn ông Nguyễn Minh Tiến.

Bị đơn ông Nguyễn Minh Tiến vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Quá trình thu thập chứng cứ, hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ và tống đạt văn bản tố tụng được Tòa án thực hiện đúng quy định. Tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Bà Phan Thị Ngọc H và ông Nguyễn Minh Tiến tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống hôn nhân của bà H và ông Tiến đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, bà H và ông Tiến đã không còn chung sống cùng nhau từ năm 2019. Bà H yêu cầu ly hôn ông Tiến là có căn cứ. Hiện nay, cháu Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 16-12-2015 đang sống cùng với bà H, được chăm sóc, giáo dục tốt và bản thân cháu Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 16-12-2015. Do đó, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông Tiến cấp dưỡng là phù hợp. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xem xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn ông Nguyễn Minh Tiến có địa chỉ thường trú tại tổ 1, khu phố 5, phường Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn ông Nguyễn Minh Tiến vắng mặt lần hai không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử váng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Ngọc H, ông Nguyễn Minh Tiến tự nguyện tìm hiểu, chung sống, có đăng ký kết hôn và được UBND xã (nay là phường) Vĩnh T, thị xã T, tỉnh Bình Dương và cấp Giấy chứng nhận kết hôn 41/2016 ngày 06-6-2016 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mẫu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm sống, ông Tiến không lo làm ăn, chăm sóc vợ con. Bà H và ông Tiến đã không còn chung sống từ năm 2019, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau, vợ chồng không thể tự hòa giải, thỏa thuận được, bà H kiên quyết ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ cho bà H và ông Tiến nhưng ông Tiến không đến Tòa án thể hiện việc không muốn hòa giải, đoàn tụ với bà H. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông Tiến đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà H yêu cầu ly hôn của bà H với ông Tiến là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 16-12-2015. Hiện tại, cháu Hân đang sống với bà H, điều kiện chăm sóc, giáo dục được đảm bảo. Do đó, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là có cơ sơ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Bà H không yêu cầu ông Tiến cấp dưỡng cho con nên Tòa án không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: Bà Phan Thị Ngọc H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điều 28, 35, 39, 238, 266, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ: Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Ngọc H đối với ông Nguyễn Minh Tiến về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Minh Tiến.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Ngọc Gia H, sinh ngày 16-12- 2015 cho bà Phan Thị Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Minh Tiến không phải cấp dưỡng cho con.

Bà Phan Thị Ngọc H và ông Nguyễn Minh Tiến đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom con để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phan Thị Ngọc H phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0037956 ngày 15-5-2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về