TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 210/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về việc "Tranh chấp ly hôn, nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kiều H, sinh năm 1997. Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn LN, huyện TN, thành phố Quãng Ngãi, xin vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn U, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số nhà 77, ấp T B, xã C T, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện lại ngày 02 tháng 6 năm 2020 và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn bà Trần Thị Kiều H trình bày:
Bà và ông Nguyễn Văn U chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã Đức Phú, huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng về sau phát sinh mâu thuẫn do ông Nguyễn Văn U không lo làm ăn, thường xuyên cờ bạc, ghen tuông vô cớ làm cho tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay, do đó bà Trần Thị Kiều H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn U.
Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Trần Minh Kh, sinh ngày 22-7-2015. Bà H yêu cầu được nuôi con chung sau khi ly hôn. Không yêu cầu ông U cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về nợ chung: không có.
- Trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn U có lời khai ngày 21 tháng 10 năm 2020 như sau:
Về hôn nhân: Đối với yêu cầu ly hôn của bà H thì ông đồng ý ly hôn vì vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay không còn liên lạc, vợ chồng cũng không còn tình cảm.
Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Trần Minh Kh, sinh ngày 22-7-2015. Ông đồng ý để bà H tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn, ông không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.
Do bận công việc đi làm ăn xa nên xin vắng mặt khi tòa án triệu tập hòa giải và xét xử.
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn mặc dù được thông báo hợp lệ, nhưng vắng mặt không lý do tại hai lần triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải là chưa thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị Kiều H và ông Nguyễn Văn U có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Phú, huyện Mộ Đức nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy về tình cảm giữa bà H và ông U không còn hạnh phúc, cả hai bỏ mặt không còn quan tâm nhau, thể hiện từ năm 2017 thì ông, bà đã không còn sống chung với nhau. Như vậy, thấy rằng cuộc sống hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được, nhận thấy yêu cầu xin ly hôn của bà H là có căn cứ.
Về con chung: có một con chung là cháu Nguyễn Trần Minh Kh, sinh ngày 22-7-2015. Bà H và ông U thống nhất sau khi ly hôn, bà H sẽ tiếp tục nuôi dưỡng con chung, sự thống nhất này cũng phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị Kiều H không yêu cầu, nên không xem xét.
Về tài sản chung: Bà H và ông U có ý kiến tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.
Về nợ chung: không có.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.
Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu và có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn cũng có đơn xin vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn bà Trần Thị Kiều H, bị đơn ông Nguyễn Văn U đã được Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Văn U có đăng ký hộ khẩu thường trú Số nhà 77, ấp T B, xã C T, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
Về hôn nhân: Bà Trần Thị Kiều H và ông Nguyễn Văn U tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Phú, huyện Mộ Đức vào ngày 09-7-2015 theo đúng quy định tại Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân gia đình nên đây là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của các bên đều xác định có xảy ra mâu thuẫn, bà H và ông U thống nhất ly hôn. Tuy nhiên, ông U xin vắng mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử. Do đó, Tòa án không tiến hành hòa giải được, mà giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
Xét thấy, qua ý kiến trình bày của nguyên đơn và bị đơn nhận thấy tình cảm của vợ chồng không còn, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Trần Thị Kiều H xin ly hôn là có căn cứ.
Về con chung: Bà Trần Thị Kiều H và ông Nguyễn Văn U có một con chung tên Nguyễn Trần Minh Kh, sinh ngày 22-7-2015. Bà H và ông U thống nhất, bà H sẽ tiếp tục nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn, sự thỏa thuận này cũng phù hợp theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị Kiều H không yêu cầu nên không xem xét.
Về tài sản chung: Bà Trần Thị Kiều H và ông Nguyễn Văn U khai tự thỏa thuận nên không xem xét.
Về nợ chung: không có.
[4] Về án phí: Bà Trần Thị Kiều H xin ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch. Ông Nguyễn Văn U không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 271; khoản 1 Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị Kiều H đối với ông Nguyễn Văn U, bà Trần Thị Kiều H được ly hôn với ông Nguyễn Văn U.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 47, quyển số 01/2015 ngày 09-7- 2015 của Ủy ban nhân dân xã Đức Phú, huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi không còn giá trị pháp lý.
Về nuôi con chung:
Giao con chung tên Nguyễn Trần Minh Kh, sinh ngày 22-7-2015 cho bà Trần Thị Kiều H tiếp tục nuôi dưỡng.
Ông Nguyễn Văn U không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức có thẩm quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.
Về án phí: Bà Trần Thị Kiều H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số TU/2019/0000277 ngày 02 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn, bà Trần Thị Kiều H đã nộp đủ.
Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật thi hành dân sự.
Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 62/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về