Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 06/05/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ

 BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ LY HÔN

 Ngày 06 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 37/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 về: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 21 tháng 04 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hà Văn D - sinh năm: 1978 HKTT: Thôn Xê, xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt. ( Có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 21/04/2020).

- Bị đơn: Trương Thị Th - Sinh năm: 1988 Hộ khẩu thường trú: Thôn Xê, xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt. ( Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt ngày 10/03/2020).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai ngày 18/03/2020 anh Hà Văn D trình bày: Anh và chị Trương Thị Th tự do yêu đương tìm hiểu tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 26/01/2011 tại UBND xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc, ngày 26/6/2014 chị Th đột nhiên bỏ nhà đi làm ăn mà không thông báo gì với anh, anh có gọi điện hỏi lý do bỏ đi nhưng chị Th không nói và nói không thể tiếp tục chung sống với anh, không đồng ý quay về đoàn tụ dù anh đã nhiều lần khuyên giải động viên. Từ đó đến nay chị Th không quay về với anh. Nay anh xét thấy vợ chồng không cùng chung sống, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh có nguyện vọng được ly hôn chị Th.

Về con cái: Vợ chồng không có con chung. Trước khi lấy nhau anh và chị Th mỗi người đã có con riêng. Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề con cái.

Về tài sản: Anh D không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 10/03/2020 chị Trương Thị Th trình bày: Chị với anh Hà Văn D kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 26/01/2011. Vợ chồng hoà thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Vợ chồng không hợp tính nhau, luôn bất đồng nhau trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Vợ chồng không thể thông cảm và chia sẻ được với nhau, vì vậy vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2014 đến nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên anh D làm đơn ly hôn chị, chị cũng nhất trí ly hôn anh D.

- Về con cái: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị không có con chung.

- Về tài sản: Vợ chồng chị không có tài sản gì chung nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho các bên đương sự nhưng chị Th không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho chị Th. Anh D đề nghị không tiến hành hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS). Do công việc, anh D và chị Th không thể có mặt để tham gia phiên tòa được nên anh D và chị Th đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 điều 228 BLTTDS Tòa án xét xử vắng mặt anh D và chị Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Hà Văn D và chị Trương Thị Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày ngày 26/01/2011 tại UBND xã Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Vợ chồng không thể thông cảm và chia sẻ được với nhau trước những khó khăn trong cuộc sống. Mặt khác vợ chồng không có con chung với nhau nên không có gì ràng buộc. Vợ chồng không thể khắc phục được nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vì vậy, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2014 đến nay, không ai quan tâm tới ai, mạnh ai người đó sống. Cả anh D và chị Th đều có nguyện vọng ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu  thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy. căn cứ điều 55 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh Hà Văn D và chị Trương Thị Th được ly hôn để giải phóng cho nhau là cần thiết và phù hợp pháp luật.

[2] Về con cái: Vợ chồng không có con chung nên miễn xét.

[3] Về tài sản: Anh D và chị Th không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[4] Về án phí: Do anh Hà Văn D thuộc diện hộ nghèo, là người đồng bào dân tộc thiểu số, sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Anh D đã có đơn đề nghị miễn tiền án phí. Vì vậy cần căn cứ vào điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án miễn nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm cho anh Hà Văn D.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điều 55 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 điều 28, khoản 4 điều 207, khoản 1 điều 227, điều 228, điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.

Về hôn nhân: Xử cho anh Hà Văn D được ly hôn chị Trương Thị Th.

Về án phí: Miễn nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm cho anh Hà Văn D.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt anh Hà Văn D và chị Trương Thị Th. Anh D và chị Th có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 06/05/2020 về ly hôn

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về