Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 03/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2020/TLST-HNGĐ, ngày 06/5/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 82/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1993 Địa chỉ: Số 359, ấp 5B, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn P, sinh năm 1992 Địa chỉ: Ấp 5A, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre (Chị H có mặt, anh P vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Tấn P kết hôn vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre; hôn nhân do tự nguyện.

Sau khi kết hôn, anh chị sống tại nhà chồng; thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không có sự thấu hiểu, thông cảm và sẽ chia, anh chị đã ly thân từ khoảng 6 tháng nay.

Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Nguyễn Tấn P nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Chị H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn - Về con chung: Chị H và anh Nguyễn Tấn P có 1 con chung: Nguyễn Ngọc Gia H1, sinh ngày 19/7/2018. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Ngọc Gia H1, không yêu cầu anh Nguyễn Tấn P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị H khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Tấn P đến để tiến hành hòa giải nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do nên không thể tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện G mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, Nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn anh Nguyễn Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Nguyễn Tấn P đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng:

- Chị Nguyễn Ngọc H khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P và được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Bị đơn anh Nguyễn Tấn P hiện đang cư trú tại ấp 5A, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre. Do đó, căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện G thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

- Bị đơn anh Nguyễn Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh P.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc H và anh Nguyễn Tấn P tự nguyện kết hôn vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, chị H cho rằng chị và anh P bất đồng quan điểm sống, anh P không có sự thấu hiểu, thông cảm và sẽ chia với chị, anh chị đã ly thân từ khoảng 1 năm nay. Chị đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng không thành; nay chị xác định không còn tình cảm với anh P nữa nên xin được ly hôn.

Về phía anh P, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh P tham gia phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các bên hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh P đã không đến Tòa án và cũng không có gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H. Qua đó, cho thấy tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn; anh P có thái độ bỏ mặc, không hề có ý mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị H.

Từ những phân tích trên xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Ngọc H và anh Nguyễn Tấn P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài vì cả hai bên đều không ai mong muốn đoàn tụ, mục đích hôn nhân vì thế không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai.

[2.2] Về con chung: Chị Nguyễn Ngọc H và anh Nguyễn Tấn P có 1 con chung: Nguyễn Ngọc Gia H1, sinh ngày 19/7/2018. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Ngọc Gia H1, không yêu cầu anh Nguyễn Tấn P cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, hiện tại cháu Nguyễn Ngọc Gia H1 đang sống chung với chị H và có cuộc sống, sinh hoạt ổn định; cháu H1 tuổi còn rất nhỏ nên cần có sự chăm sóc của người mẹ; phía anh P cũng không có ý kiến gì về vấn đề con chung. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận để chị H là người trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Ngọc Gia H1. Đồng thời, xét việc chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Ngọc H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Chị Nguyễn Ngọc H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, chị Nguyễn Ngọc H phải chịu theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc H đối với bị đơn anh Nguyễn Tấn P, cụ thể tuyên:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc H được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P.

- Về con chung: Chị Nguyễn Ngọc H được trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Ngọc Gia H1 cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc chị H không yêu cầu anh Nguyễn Tấn P cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Tấn P được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích về mọi mặt của con chung, khi cần thiết các bên đương sự được quyền yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Ngọc H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Ngọc H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Nguyễn Ngọc H phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0011492 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Chị H đã nộp xong tiền án phí.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, chị Nguyễn Ngọc H được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Đối với anh Nguyễn Tấn P vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 03/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về