Bản án 62/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Hữu D – sinh năm 1965, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu C và bà Nguyễn Thị B (đều đã chết); có vợ Phạm Thị L và có 03 con; tiền sự: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 37/QĐ-TA ngày 20 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện A đã quyết định đưa bị cáo vào cơ sở cai nghiện ma túy số 2 thành phố Hải Phòng với thời hạn 24 tháng (chưa thi hành quyết định); tiền án: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 29 tháng 3 năm 2019, chuyển tạm giam ngày 05 tháng 4 năm 2019; có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Trung H – sinh năm 1991, tại Thái Bình. ĐKTT: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: Thôn C, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Phạm Thị H1; có vợ Trịnh Thị H2, chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 29 tháng 3 năm 2019, chuyển tạm giam ngày 05 tháng 4 năm 2019; có mặt tại phiên tòa.

- Những người làm chứng: Bà Trần Thị N, anh Trương Văn L, anh Nguyễn Thanh S, anh Phạm Văn Đ; đều vắng mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị T1; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 50 phút ngày 29 tháng 3 năm 2019, Tổ công tác - Công an huyện A kết hợp với Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy số 1 - Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và Công an xã Đại Bản làm nhiệm vụ tại thôn T, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng phát hiện Phạm Hữu D điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 15C1-37433 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện bắt quả tang Phạm Hữu D cất dấu trong người chất nghi ma túy, D khai nhận là ma túy mang đi bán cho khách. Vật chứng thu giữ: Thu trong túi quần bên phải phía trước D đang mặc 01 túi ni lon màu trắng kích thước 6x8cm bên trong chứa chất bột màu trắng và 05 gói giấy màu trắng mỗi gói kích thước 2x0,5cm bên trong đều chứa chất bột màu trắng (mẫu 01QT), xe mô tô Biển kiểm soát 15C1-37433.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Hữu D tại thôn A, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng, Cơ quan Công an thu giữ:

- Thu tại mặt can nhựa gần cửa chính gồm 21 gói giấy màu trắng trong đó có 19 gói có kích thước mỗi gói 0,5x2cm và 02 gói giấy kích thước 1,5x3cm bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng (mẫu 02 KX);

- Thu giữ trên mặt bàn 01 lượng nhỏ chất bột màu trắng trên mảnh giấy màu trắng kích thước 4x4cm, khi thu giữ Cơ quan Công an đã gói lại có kích thước 2x0,5cm (mẫu 03 KX);

- Thu tại khe ghế 01 túi ni long màu trắng kích thước 4x8cm trong có 02 gói giấy kích thước mỗi gói 1,5x3cm bên trong đều chứa chất bột màu trắng (mẫu 04 KX);

- Thu giữ tại hộp sắt trong tủ gỗ cạnh cửa ra vào 10 gói ni lon màu trắng kích thước 1,5x1,5cm chứa tinh thể màu trắng (mẫu 05KX);

- Thu giữ trong tủ gỗ cạnh giường ngủ của Phạm Hữu D có 10 tờ giấy màu trắng kích thước khoảng 5x5cm; 15 tờ giấy kích thước khoảng 4x4cm; 01 cân tiểu ly màu đen kích thước 4x8x1,5cm; 01 dao lam và số tiền 1.450.000đồng.

Khi Cơ quan công an tiến hành khám xét nơi ở của Phạm Hữu D còn có mặt Phạm Trung H, khám người Phạm Trung H đã thu trong túi quần phía trước bên phải của H 05 gói giấy màu trắng kích thước mỗi gói 2x0,5cm bên trong chứa chất bột màu trắng (mẫu 06KC) và thu trong túi quần sau H đang mặc có 600.000đồng.

Khám xét nơi ở của Phạm Trung H, Cơ quan Công an không thu giữ được tài liệu, đồ vật gì.

Tại bản kết luận giám định số 123/KLGĐ(Đ6) ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng đã kết luận:

- Chất bột màu trắng của mẫu số 01 (QT) là ma túy có khối lượng 4,0032 gam, là loại: Heroine - Chất bột màu trắng của mẫu số 02 (KX) gửi giám định là ma túy có khối lượng: 1,6344 gam, là loại: Heroine - Chất bột màu trắng của mẫu số 03 (KX) gửi giám định là ma túy có khối lượng: 0,0460 gam, là loại: Heroine - Chất bột màu trắng của mẫu số 04 (KX) gửi giám định là ma túy có khối lượng: 0,4243 gam, là loại: Heroine - Tinh thể màu trắng của mẫu số 05 (KX) gửi giám định là ma túy có khối lượng: 1,2361 gam, là loại: Methamphetamine.

- Chất bột màu trắng của mẫu số 06 (KC) gửi giám định là ma túy có khối lượng: 0,3081 gam là loại: Heroine.

Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo Phạm Hữu D có hội chứng cai ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện A đã trưng cầu Viện pháp y tâm thần trung ương giám định pháp y tâm thần đối với bị cáo. Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 153/KLGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Viện Pháp y tâm thần trung ương đã kết luận: " Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội bị can Phạm Hữu D có hội chứng nghiện chất dạng thuốc phiện. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F11.2. Bị can đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi.

Sau khi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Phạm Hữu D có hội chứng nghiện chất dạng thuốc phiện hiện đang cai ở môi trường được bảo vệ. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F11.21. Bị can đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi".

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo Phạm Hữu D, Phạm Trung H khai nhận: Do bản thân bị nghiện ma túy nên để có ma túy sử dụng, bị cáo Phạm Hữu D đã bán ma túy trước ngày bị bắt khoảng một năm. Từ ngày 22 tháng 3 năm 2019 đến khi bị phát hiện bắt giữ, Phạm Hữu D đã thuê Phạm Trung H đến nhà bán ma túy cho Phạm Hữu D, Phạm Trung H được D trả công bằng ma túy, mỗi ngày từ 02 đến 03 gói. Khoảng 05 giờ ngày 29 tháng 3 năm 2019, Phạm Hữu D đến khu vực đường tàu T, quận L mua của một người đàn ông không quen biết 02 túi ma túy (heroin) với giá 5.400.000đồng. Về đến nhà, Phạm Hữu D để 01 gói vào túi quần và bỏ 01 gói ma túy ra, dùng dao lam chia nhỏ ma túy để bán lẻ; khi đang chia nhỏ thì Phạm Trung H đến và cùng tham gia chia nhỏ ma túy, Phạm Trung H đã dùng các mảnh giấy gói lại được 40 gói ma túy. Trong buổi sáng ngày 29 tháng 3 năm 2019, khi D và H cùng ở nhà, Phạm Trung H đã bán cho 04 lượt người mua 04 gói ma túy thu được 400.000đ; số tiền trên, Phạm Trung H quản lý, chưa đưa lại cho Phạm Hữu D. Đến khoảng 13 giờ 50 phút cùng ngày do có người hẹn mua nên Phạm Hữu D đã mang theo 01 túi ni lon và 05 gói nhỏ (bên trong đều chứa ma túy) đi giao cho khách thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang. Trong khi Phạm Hữu D đi giao ma túy cho người mua, Phạm Trung H đã bán cho một người mua 02 gói ma túy thu được 200.000đồng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Cơ quan công an đã khám xét nhà của Phạm Hữu D có Phạm Trung H. Quá trình bắt giữ và khám xét nơi ở của Phạm Hữu D, Cơ quan Công an đã thu giữ vật chứng của Phạm Hữu D, Phạm Trung H như đã nêu trên. Nguồn gốc số ma túy gồm Heroin và Methamphetamine bị thu giữ là của bị cáo Phạm Hữu D mua về nhằm mục đích bán kiếm lời; bị cáo Phạm Trung H không biết việc bị cáo Phạm Hữu D cất giấu lượng Methamphetamine và lượng Heroin mà D mang đi giao cho người mua vào buổi chiều ngày 29 tháng 3 năm 2019. Số tiền 2.050.000đồng thu giữ trong vụ án là do phạm tội mà có.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Hữu D, Phạm Trung H khai nhận như nội dung trên. Ngoài các bị cáo ra, không còn ai khác có liên quan hoặc cùng tham gia thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy tại nhà Phạm Hữu D. Số tiền thu được từ việc bán ma túy cho người mua đều được bị cáo H đưa lại cho bị cáo D quản lý, sử dụng; bị cáo H không được hưởng lợi bằng tiền, chỉ được D trả công bằng ma túy. Số ma túy được bị cáo D trả công hàng ngày, bị cáo Phạm Trung H dùng để sử dụng cho bản thân và đã có vài lần H tự ý sử dụng ma túy tại nhà bị cáo Phạm Hữu D, bị cáo Phạm Hữu D không biết và cũng không đồng ý để bị cáo Phạm Trung H sử dụng ma túy tại nhà. Số tiền 600.000đồng thu của Phạm Trung H có được là do bán ma túy cho những người đến mua; số tiền 1.450.000đồng thu của Phạm Hữu D là do các con của bị cáo D cho.

Công bố lời khai những người làm chứng, người chứng kiến có nội dung như các bị cáo Phạm Hữu D và Phạm Trung H đã khai nhận tại phiên tòa.

Tại Cáo trạng số 55/CT-VKS ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Phạm Hữu D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Phạm Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, phân hóa vai trò các bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng các điểm b, p khoản 2 và khoản 5 Điều 251; các điểm p, s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Hữu D từ 09 đến 10 năm tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Hữu D từ 10 đến 20 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

Áp dụng điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; các điểm s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Trung H từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Trung H từ 05 đến 10 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì mẫu vật.

Tch thu tiêu hủy 15 mảnh giấy trắng, kích thước khoảng 4x4cm; 10 mảnh giấy trắng, kích thước 5x5cm; 01 cân tiểu ly màu đen, kích thước 4x8x1,5cm; 01 dao lam;

Tch thu sung công số tiền 2.050.000đ đã thu giữ trong vụ án;

Khi nói lời nói sau cùng, các bị cáo Phạm Hữu D và Phạm Trung H đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang do Công an huyện A lập vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 29 tháng 3 năm 2019, phù hợp với Bản kết luận giám định số 123/KLGĐ(Đ6) ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, phù hợp với lời khai những người làm chứng, người chứng kiến; phù hợp với vật chứng đã được thu giữ, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Phạm Hữu D, Phạm Trung H đã có hành vi bán trái phép heroin vào ngày 29 tháng 3 năm 2019 tại nhà Phạm Hữu D ở thôn A, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng. Ngoài ra, bị cáo Phạm Hữu D còn có hành vi tàng trữ trái phép tổng số 6,4160 gam Heroin và 1,2361 gam Methamphetamine; bị cáo Phạm Trung H có hành vi cùng với bị cáo Phạm Hữu D tàng trữ 2,4128gam heroin đều nhằm mục đích bán kiếm lời.

[3] Theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ thì heroine có số thứ tự 09 thuộc danh mục I - Danh mục các chất ma túy; methaphetamine có số thứ tự 323 thuộc danh mục II - Danh mục các chất ma túy.

[4] Theo bản kết luận giám định tâm thần số 153/KLGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Viện Pháp y tâm thần trung ương thì trước, trong, sau khi phạm tội và tại thời điểm hiện tại bị cáo Phạm Hữu D có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên các bị cáo Phạm Hữu D và Phạm Trung H có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội: “ Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Xét tình tiết định khung hình phạt:

[5] Sáng ngày 29 tháng 3 năm 2019, các bị cáo đã 04 lần bán trái phép chất ma túy cho bốn lượt người nên hành vi của các bị cáo đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự "Phạm tội 02 lần trở lên".

[6] Khối lượng ma túy bị thu giữ trong vụ án gồm 6,4160 gam Heroin và 1,2361 gam Methamphetamine, đều là bị cáo Phạm Hữu D; tổng khối lượng các chất ma túy gồm Heroin, Methamphetamine của Phạm Hữu D tàng trữ nhằm mục đích bán kiếm lời là 7,6521 gam nên hành vi của bị cáo Phạm Hữu D vi phạm điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự "Có từ 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng của các chất đó tương đương với khối lượng ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này". Bị cáo Phạm Trung H không biết bị cáo Phạm Hữu D đã tàng trữ 4,0032 gam heroin để mang đi giao cho người mua và 1,2361gam methamphetamine được cất giấu trong hộp sắt. Vì vậy lượng Heroin bị cáo Phạm Trung H đã tàng trữ cùng với bị cáo Phạm Hữu D là 2,4128gam nên không phải chịu tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng; việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[8] Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự nhưng về nhân thân, bị cáo Phạm Hữu D là đối tượng nghiện chất ma túy, chưa thi hành Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng của Tòa án nhân dân huyện A.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[9] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; tỏ ra ăn năn, hối cải; đã tự thú về hành vi bán trái pháp chất ma túy nhiều lần nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[10] Bị cáo Phạm Hữu D là người khuyết tật và có bố là ông Phạm Đình C được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[11] Bị cáo Phạm Trung H có thời gian tham gia quân đội nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về phân hóa vai trò:

[12] Bị cáo Phạm Hữu D là người khởi xướng cũng là người thực hành tội phạm tích cực nhất, trực tiếp đi mua và chia nhỏ, cất giấu ma túy; là người quản lý, sử dụng và được hưởng lợi nhiều nhất số tiền thu được từ việc bán ma túy; thời gian bán ma túy kéo dài hơn nên vai trò của bị cáo là cao nhất trong vụ án. Bị cáo Phạm Trung H là người thực hiện việc phạm tội với vai trò giúp sức, tham gia chia nhỏ ma túy và bán ma túy thuê cho bị cáo Phạm Hữu D để được trả công bằng ma túy, không được hưởng lợi bằng tiền và thời gian bán ma túy cũng ngắn hơn nên vai trò của bị cáo Phạm Trung H thấp hơn so với vai trò của bị cáo Phạm Hữu D.

Bị cáo Phạm Hữu D có vai trò cao hơn bị cáo Phạm Trung H, phải chịu nhiều tình tiết định khung hơn nên phải chịu hình phạt cao hơn so với bị cáo Phạm Trung H.

- Về hình phạt bổ sung:

[13] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự người phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước. Xét hoàn cảnh gia đình, tính chất mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện nên phạt bị cáo Phạm Hữu D 15.000.000đ, bị cáo Phạm Trung H 5.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về vật chứng, xử lý vật chứng:

[14] Trong vụ án, Cơ quan Điều tra đã thu giữ 6,4160 gam Heroin và 1,2361 gam Methamphetamine; 01 xe mô tô biển kiểm soát 15C1-37433; 15 mảnh giấy trắng, kích thước khoảng 4x4cm; 10 mảnh giấy trắng, kích thước 5x5cm; 01 cân tiểu ly màu đen, kích thước 4x8x1,5cm; 01 dao lam và số tiền 2.050.000đồng.

[15] Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[16] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 15C1-37433, tài liệu điều tra thể hiện thuộc sở hữu của anh Phạm Văn Đ (là con trai bị cáo Phạm Hữu D), khi bị cáo Phạm Hữu D sử dụng xe mô tô đi giao ma túy, anh Đ không biết nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Phạm Văn Đ quản lý, sử dụng là có căn cứ.

[17] Đối với 15 mảnh giấy trắng, kích thước khoảng 4x4cm; 10 mảnh giấy trắng, kích thước 5x5cm; 01 cân tiểu ly màu đen, kích thước 4x8x1,5cm; 01 dao lam là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, có giá trị sử dụng không lớn nên cần tịch thu tiêu hủy.

[18] Đối với số tiền 2.050.000đồng là tài sản có được do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước. Việc tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hữu D thay đổi lời khai cho rằng số tiền 1.450.000đồng là do các con của bị cáo cho là không có căn cứ chấp nhận.

- Về những vấn đề khác:

[19] Đối với hành vi sử dụng ma túy của Phạm Trung H tại nhà Phạm Hữu D, do D không biết việc H sử dụng ma túy tại nhà D nên không có căn cứ xử lý đối với Phạm Hữu D về hành vi chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy.

[20] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Hữu D và những đối tượng mua ma túy của các bị cáo do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[21] Đối với Phạm Văn Đ là con của bị cáo Phạm Hữu D không biết việc D, H bán ma túy tại nhà nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

[22] Về án phí: Theo quy định của pháp luật bị cáo Phạm Trung H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước. Bị cáo Phạm Hữu D là người khuyết tật nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điểm b, p khoản 2 và khoản 5 Điều 251; các điểm p, s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Hữu D 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; các điểm s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Trung H 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù của các bị cáo Phạm Hữu D, Phạm Trung H tính từ ngày 29 tháng 3 năm 2019.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Hữu D 15.000.000đồng (mười năm triệu đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Trung H 5.000.000đồng (năm triệu đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về xử lý vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín niêm phong số 123/2019/PC09, bên trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định, toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật.

Tch thu tiêu hủy với 01 cân tiểu ly màu đen, kích thước 4x8x1,5cm; 15 mảnh giấy trắng kích thước 4x4cm; 10 mảnh giấy trắng kích thước 5x5cm; 01 dao lam.

Tch thu sung vào công quỹ nhà nước số tiền 2.050.000đồng đã thu giữ trong vụ án.

(Toàn bộ số vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện A quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Công an huyện A và Chi cục thi hành án dân sự huyện A).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Bị cáo Phạm Trung H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Hữu D Các bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về