Bản án 62/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 22/3/2019; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/QĐXX-ST ngày 07/5/2019 đối với bị cáo:

Đỗ Đức T; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1983. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm S, xã Đ, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn 7/12; Đảng đoàn thể: Không, Con ông Đỗ Đức L, sinh năm 1962; Con bà: Hà Thị T, sinh năm 1962, đều trú tại xóm S, xã Đ, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Gia đình có 02 anh em ruột. Bị cáo là con thứ nhất, có vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1988. Vợ chồng đã ly hôn, có 01 con chung sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự : Không.

Nhân thân: Khoảng cuối tháng 12 năm 2013 đến ngày 10/01/2014 có hành vi trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên (nay là Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên) xử phạt 15 tháng tù tại Bản án số 54 ngày 24/6/2014. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 29/11/2016 đã được xóa án tích.

Ngày 28/8/2015, có hành vi trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên xử phạt 15 tháng tù tại Bản án số 129 ngày 19/12/2015 Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 29/11/2016 đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2019 đến nay, hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

*/ Người bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1974. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt

Nơi cư trú: xóm A, xã T, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

*/ Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978. Vắng mặt

Nơi cư trú: xóm A, xã T, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 13/01/2019. Nguyễn Văn Khanh đi bộ từ nhà ở xóm Đình, Tảo Địch, xã Tân Phú, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ra khu vực Công ty Marphavet thuộc xóm Thanh Tân, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Khi đi trên đường, Khanh nhặt được 01 chiếc đinh 10 bằng kim loại màu xám đen, cong hình chữ L, một đầu có mũi đinh, đầu còn lại bẹt. Khanh đã cất chiếc đinh vào túi áo rét Khanh đang mặc. Khi đến gần Công ty Marphavet, Khanh gặp bạn là Đỗ Đức T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20H6-4951, Khanh rủ T đi đến nhà máy SamSung Thái Nguyên chơi, T đồng ý. T chở Khanh đi đến nút giaoYên Bình, thuộc xóm Ao Đình, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Khanh bảo T đỗ xe lại để Khanh đi vệ sinh. T đỗ xe lại lề đường phải, ngang dốc lên cầu vượt đường Quốc lộ 3 mới hướng đi từ nhà máy điện tử SamSung Thái Nguyên ra Ngã 3 Nam Tiến, Khanh trèo qua lan can đường, đi xuống đường bê tông phía dưới cách T 30,8 mét để vệ sinh. Khi vệ sinh xong, Khanh phát hiện trên đường bê tông cách Khanh 77,1 mét có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen, biểm kiểm soát 20H1-326.44 của chị Nguyễn Thị Thăng, sinh năm 1974, nơi ở xóm Ao Đình, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên đang dựng trên đường bê tông đầu hướng ra Quốc lộ 3 mới và không có người trông coi. Khanh nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy của chị Thăng. Khanh nhìn về phía T, thấy T nhìn Khanh, Khanh hất hàm về phía chiếc xe mô tô. Khanh có ý rủ T cùng Khanh trộm cắp chiếc xe mô tô. T hiểu ý Khanh rủ T trộm cắp chiếc xe mô tô nên T gật đầu đồng ý. Khanh đi bộ lại phía chiếc xe mô tô, T đứng bên lề phải đường hướng nhà máy điện tử SamSung Thái Nguyên đi Ngã 3 Nam Tiến để quan sát và cảnh giới cho Khanh. Khanh tiến đến gần vị trí chiếc xe mô tô dùng tay phải lấy chiếc đinh 10 trong túi ra cho đầu bẹt của chiếc đinh vào ổ khóa điện rồi vặn theo chiều kim đồng hồ để mở khóa xe. Khanh vặn 3 cái thì phá được ổ khóa của xe mô tô. Khanh dùng tay trái nắm vào tay lái xe, tay phải nắm vào đuôi xe, chống chân chống xe rồi quay xe mô tô theo hướng ngược lại. Khanh vừa quay xe xong thì nghe thấy tiếng chị Thăng hô trộm, Khanh thấy mình bị phát hiện nên bỏ lại chiếc xe mô tô rồi đi lên đường. T thấy Khanh đi lên đường thì quay xe lại, đi xe ra chỗ Khanh. Khanh lên xe T đèo bỏ chạy theo hướng đi xã Tiên Phong. Ngay lúc đó thì có anh Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1987, nơi ở xóm Ao Đình, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã dùng xe mô tô đuổi theo T và Khanh. Trên đường bỏ chạy, Khanh đã đánh rơi mất chiếc đinh 10. Khi Khanh và T đi đến tổ dân phố Hoàng Thanh, phường Đồng Tiến, thị xã Phổ Yên thì T bị ngã xe mô tô, anh Tuấn và một số người dân đã bắt được Khanh và T sau đó báo cho cơ quan công an, Công an thị xã Phổ Yên phối hợp cùng Công an xã Tân Hương lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ vật chứng và chuyển hồ sơ vụ việc cùng hai đối tượng Nguyễn Văn Khanh và Đỗ Đức T đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/KLĐG ngày 16/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Phổ Yên kết luận: 01 chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát: 20H1-326.44, màu sơn vàng-đen, dung tích 109,1cm3, số máy JA3IE0351981, số khung 311EY 195055. Phương tiện đã qua sử dụng, trị giá là 15.400.000 đồng (Mười năm triệu bốn trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra, Đỗ Đức T và Nguyễn Văn Khanh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xe mô tô biển kiểm soát 20H1- 326.44 cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Thăng. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 20H6 - 4951 mà Nguyễn Đức T đã mượn của ông Nguyễn Đức Hậu để sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp vào ngày 13/01/2019, quá trình điều tra ông Hậu không biết T mượn xe đi trộm cắp nên cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Hậu quản lý sử dụng. Chiếc điện thoại nhãn hiệu Gionee - L800, màu vàng, máy đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn Khanh, cơ quan điều tra đã trả cho gia đình Nguyễn Văn Khanh quản lý sử dụng. Chiếc đinh 10 mà Khanh sử dụng để phá khóa xe mô tô, cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thấy. Ngày 16/02/2019, Nguyễn Văn Khanh đã chết do tự tử trong Nhà tạm giữ Công an thị xã Phổ Yên. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định đình chỉ bị can đối với Nguyễn Văn Khanh.

Bản cáo trạng số 50/CT-VKSPYngày 21/03/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên truy tố Đỗ Đức T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, phần luận tội, sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Đỗ Đức T từ 24 đến 30 tháng tù giam.

* Hình phạt bổ sung: Bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, nên không xem xét.

* Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy của bị cáo 01 điện thoại do bị cáo không có nhu cầu nhận lại.

Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng tội, không oan, xin được hưởng mức án thấp nhất và không có tranh luận gì

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòatrên có sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ýkiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay Đỗ Đức T thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo là đúng tội, không oan. Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 13/01/2019, tại đường bê tông thuộc khu vực xóm Ao Đình, xã Tân Hương, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Đỗ Đức T và Nguyễn Văn Khanh đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 20H1-326.44 của chị Nguyễn Thị Thăng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Giá trị chiếc xe mô tô là 15.400.000 đồng (Mười năm triệu bốn trăm nghìn đồng).

Hành vi nêu trên của Đỗ Đức T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

[3]Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có trình độ văn hóa 7/12, đủ để biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý, hành vi đó cần phải được xử lý nghiêm khắc.

[4]Xét nhân thân và các các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

Bị cáo là người có nhân thân xấu: Ngày 24/06/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên (nay là Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên) xử phạt 15 tháng tù tại Bản án số 54 ngày 24/6/2014 về hành vi trộm cắp tài sản. Đã chấp hành xong hình phạt ngày 29/11/2016, đã được xóa án tích; Ngày 19/12/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên xử phạt 15 tháng tù tại bản án số 129 về hành vi trộm cắp tài sản. Đã chấp hành xong hình phạt ngày 29/11/2016, đã được xóa án tích.

Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để chấp hành pháp luật tốt hơn mà tiếp tục phạm tội, thể hiện tính coi thường pháp luật, hành vi đó phải được xử lý nghiêm khắc. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản mà bị cáo trộm cắp chưa bị thiệt hại, nên cho bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5]Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấycần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dâncó ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe, ngăn ngừa tình trạng phạm tội.Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa, xét thấy là phù hợp có căn cứ chấp nhận

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy của bị cáo 01 điện thoại không sử dụng được do bị cáo không có nhu cầu nhận lại.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Đức T phạm tội"Trộm cắp tài sản".

1/- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Đỗ Đức T 24 (hai mươi bốn) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/01/2019.

- Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

3/- Trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, hội đồng xét xử không xem xét.

4/- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự,tịch thu tiêu hủy01 điện thoại di động nhãn hiệu Kechaoda-K11 để trong 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu A1.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 20/5/2019 giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên).

5/-Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Đỗ Đức T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại Nguyễn Thị T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về