Bản án 62/2019/HS-ST ngày 08/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 08/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hữu Gi, sinh năm 1990 tại tỉnh An Giang; thường trú: Ấp Th H, xã Th M T, huyện Ch Ph, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Phước C (đã chết) và bà Lê Thị H, sinh năm 1942; bị cáo có 05 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm không rõ, nhỏ nhất sinh năm không rõ; bị cáo có vợ tên là Lê Huỳnh Liên Ng, sinh năm 1989; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/10/2018 cho đến nay, có mặt.

2. Lê Huỳnh Liên Ng, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 80B/13 khu phố N H 2, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ giúp gia đình; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Th, sinh năm 1952 và bà Huỳnh Thị Ng, sinh năm 1955; bị cáo có 02 chị ruột, lớn sinh năm 1978, nhỏ sinh năm 1985; bị cáo có chồng tên là Nguyễn Hữu Gi, sinh năm 1990; bị cáo có 02 con ruột, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Bà Châu Thị K, sinh năm 1956; địa chỉ: Khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Hữu Gi và Lê Huỳnh Liên Ng có quan hệ là vợ chồng không đăng ký kết hôn và có 01 con chung sinh ngày 18/4/2018, cả hai đều sử dụng ma túy. Ngày 08/10/2018, Gi và Ng đến thuê phòng số E1, nhà nghỉ V M thuộc khu phố Đ Ch, phường T Đ Hi, thị xã D A, tỉnh Bình Dương.

Sáng ngày 10/10/2018, Nguyễn Hữu Gi đi làm, còn Ngân ở nhà một mình. Sau khi đi làm về thì Gi đến khu vực cầu H Â, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng, Gi cất ma túy vào túi quần của mình. Đến 01 giờ ngày 11/10/2018, Gi dùng điện thoại di động hiệu HTC, sim số 0931211842, Ng sử dụng điện thoại di động hiệu Oppo, sim số 0909012728 liên hệ với nhau qua mạng zalo, Ng nhắn tin cho Gi nói Gi mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 02 giờ 15 phút ngày 11/10/2018 Gi về gặp Ng, Ng hỏi ma túy đâu thì Gi lấy một gói ma túy bỏ ra giường rồi Gi đi ngủ. Còn Ng dọn dẹp phòng ngủ và cầm gói ma túy bỏ vào trong túi nilon để cạnh bên đầu giường. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày khi Gi và Ng đang ở phòng E1 nhà nghỉ V M thì lực lượng Công an phường T Đ H phối hợp với Đội Cảnh sát quản lý hành chính Công an thị xã D A kiểm tra phòng E1 nhà nghỉ V M thấy Gi và Ng có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra phát hiện trong phòng có 01 bộ sử dụng ma túy, lực lượng Công an yêu cầu tất cả phải giao nộp ma túy, lúc này Ng lấy 01 gói ma túy được hàn kín đang để ở nền gạch sát bên hông gường ra giao nộp, Ng và Gi khai nhận là ma túy. Ng và Gi đầu thú về hành vi phạm tội của mình nên Công an đã lập biên bản người có hành vi phạm tội ra đầu thú.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 (một) điện thoại di động hiệu HTC màu trắng kèm sim số 0931211842 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng kèm sim số 0909012728.

Căn cứ Kết luận giám định số 617/MT-PC09 ngày 16/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng 0,1616 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định số 617/MT-PC09 ngày 16/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Hữu Gi tại khu vực cầu H Â, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số 53/QĐ-VKS ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Hữu Gi và Lê Huỳnh Liên Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Gi từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù và bị cáo Lê Huỳnh Liên Ng từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu HTC màu trắng của Nguyễn Hữu Gi và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng của Lê Huỳnh Liên Ng sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) bì thư chứa ma túy loại Methamphetamine có khối lượng/trọng lượng sau giám định 0,0358 gam, 01 (một) bộ sử dụng ma túy và các sim số 093121184, 0909012728 là vật cấm lưu thông, công cụ phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng và các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 11/10/2018, Công an phường T Đ H phối hợp cùng Đội cảnh sát quản lý hành chính Công an thị xã Dĩ An tiến hành kiểm tra hành chính phòng E1, nhà nghỉ V M thuộc khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương do Nguyễn Hữu Gi và Lê Huỳnh Liên Ng thuê. Qua kiểm tra Gi và Ng khai nhận có tàng trữ 01 gói ma túy được hàn kín, mục đích để sử dụng nên Công an tiến hành lập biên bản người có hành vi phạm tội ra đầu thú.

Căn cứ Kết luận giám định số 617/MT-PC09 ngày 16/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng 0,1616 gam, loại Methamphetamine.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này chưa xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500gam.

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; …”

Như vậy, hành vi trên đây của các bị cáo Nguyễn Hữu Gi, Lê Huỳnh Liên Ng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo và người chứng kiến trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, Cáo trạng số 53/QĐ-VKS ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Hữu Gi, Lê Huỳnh Liên Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có ma túy sử dụng các bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xác định là tội phạm có tổ chức, trong vụ án này bị cáo Gi là người đi mua ma túy, bị cáo Ng là người nhờ bị cáo Gi mua ma túy, mục đích là để các bị cáo sử dụng chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và sau khi khi phạm tội các bị cáo đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và là người nghiện ma túy. Bị cáo Ng đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu HTC màu trắng của Nguyễn Hữu Gi và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng của Lê Huỳnh Liên Ng sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Xét 01 (một) bì thư chứa ma túy loại Methamphetamine có khối lượng/trọng lượng sau giám định 0,0358 gam, 01 (một) bộ sử dụng ma túy và các sim số 093121184, 0909012728 là vật cấm lưu thông, công cụ phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Hữu Gi tại khu vực cầu H Â, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với các bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và xử lý vật chứng. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận. 

[11] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hữu Gi, Lê Huỳnh Liên Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Gi 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2018

- Xử phạt bị cáo Lê Huỳnh Liên Ng 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu HTC màu trắng và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng (điện thoại không hoạt động nên không kiểm tra được tình trạng bên trong).

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong số 617/PC09 đã được niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có Methamphetamine có trọng lượng sau giám định 0,0358 gam, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy và các sim số 093121184, 0909012728. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/01/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Hữu Gi, Lê Huỳnh Liên Ng mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 08/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về