Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 317/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2019 và Thông báo mở lại phiên tòa số 36, ngày 14 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị L - sinh năm 1996

Trú tại: Xóm 7, xã Q, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân Th - sinh năm 1992

Trú tại: Thôn S, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ.

(Chị L có mặt, anh Th vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn xin ly hôn và những lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn là chị Đặng Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Xuân Th tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau ngày 27/3/2015 tại UBND xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Sau khi cưới, vợ chồng chị chung sống cùng gia đình anh Th, được 03 tháng thì phát sinh mâu thuẫn do anh Th nghi ngờ chị có quan hệ ngoại tình, đánh chửi chị. Tháng 12/2015 do bị anh Th chửi bới, đánh đập, chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở và sinh con, từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân. Chị được biết vào tháng 02/2018 anh Th và bố mẹ đẻ xảy ra mâu thuẫn, anh Th đã bỏ nhà đi, không ai biết anh Th đi đâu, làm gì, anh Th cũng không liên lạc với chị và hai bên gia đình.

Tháng 10/2018 chị đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với anh Th. Sau đó anh Th vẫn không quay về, cũng không có tin tức gì. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị được ly hôn anh Th.

Chị và anh Th có 01 con chung là cháu Đặng Trung K- sinh ngày 25/12/2015, hiện đang ở với chị. Nếu ly hôn, chị đề nghị được nuôi con, không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con. Chị và anh Th không có tài sản chung, vay nợ chung nên không phải giải quyết.

* Tòa án đã gặp ông Nguyễn Xuân H1 và bà Lê Thị O, trú tại thôn S, xã H (là bố mẹ đẻ anh Th). Ông H1, bà O trình bày: Anh Th và chị L chung sống hòa thuận được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn , nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Tháng 12/2015, chị L đã về nhà bố mẹ đẻ. Tháng 02/2018 anh Th bỏ nhà đi, từ đó đến nay không về, cũng không liên lạc gì với gia đình, nên ông bà không biết anh Th đang ở đâu, làm gì. Nay chị L xin ly hôn, quan điểm của ông bà là đề nghị Tòa án chấp nhận và giao cho chị L trực tiếp nuôi con.

* Đại diện UBND xã H nơi anh Nguyễn Xuân Th cư trú cung cấp: Anh Th và chị L sau khi kết hôn chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, ly thân nhau. Từ tháng 02/2018 đến nay anh Th không có mặt tại nơi cư trú. Về việc chị L xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị L.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đoan Hùng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến, xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các điều: 58, 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

- Xử cho chị Đặng Thị L và anh Nguyễn Xuân Th được ly hôn.

- Về con chung: Giao cho chị Đặng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đặng Trung K - sinh ngày 25/12/2015. Anh Nguyễn Xuân Th không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L.

- Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đặng Thị L phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị L và anh Nguyễn Xuân Th kết hôn với nhau ngày 27/3/ 2015, trên cơ sở hai bên đều tự nguyện, có đăng ký, đây là một hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chỉ chung sống hòa thuận được vài tháng thì phát sinh mâu thuẫn, đã ly thân từ tháng 12/2015 đến nay.

Xét tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Th đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị L xin ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận.

[2] Do anh Nguyễn Xuân Th đi khỏi nơi cư trú từ tháng 02/2018, đến tháng 10/2018, theo yêu cầu của chị L, Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng đã thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với anh Th. Sau đó, anh Th không quay về, cũng không liên lạc với chị L và gia đình. Không ai biết hiện nay anh Th đang ở đâu, làm gì. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng và niêm yết giấy triệu tập phiên tòa hai lần, nhưng anh Th vẫn không có mặt. Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Th.

[3] Về con chung: Do hiện nay không rõ anh Th đang ở đâu, vì vậy chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cho chị L trực tiếp nuôi cháu Kiên. Chị L có đủ khả năng, điều kiện để nuôi con, tự nguyện không yêu cầu anh Th cấp dưỡng cho con, nên không cần buộc anh Th phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L.

[4] Về tài sản chung, vay nợ chung: Do chị L trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nếu sau này anh Th trở về, chứng minh vợ chồng có tài sản chung, vay nợ chung và yêu cầu Tòa án phân chia, sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị L phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Xử cho chị Đặng Thị L và anh Nguyễn Xuân Th được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Đặng Trung K - sinh ngày 25/12/2015 cho chị Đặng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Xuân Th không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L. Anh Th có quyền và nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đặng Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai số: AA/2017/0003314, ngày 30/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng. Chị L đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị L có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm. Anh Th vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về