Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 211/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/7/2019 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Ngọc D, sinh năm 1996.

Địa chỉ: khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh Q, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Tổ 2, Khu phố 4, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn trình bày:

Bà Phạm Ngọc D và ông Nguyễn Minh Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại UBND phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 34, ngày 20/3/2018.

Trong quá trình chung sống, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông Q không lo làm ăn mà thường đàn đúm bạn bè, ăn chơi, ông Q còn có hành vi đánh bà D đến mức bị hư thai. Từ tháng 8/2018 đến nay, bà D và ông Q đã không còn sống chung. Nhận thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm không còn, không thể hàn gắn nên bà D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Nguyễn Minh Q.

Về con chung: Bà Phạm Ngọc D và ông Nguyễn Minh Q không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Ngọc D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Nguyễn Minh Q nhưng ông Q không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi văn bản có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Phạm Ngọc D có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn ông Nguyên Minh Q vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật. Vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định tại chương XIV về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Phạm Ngọc D khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Minh Q. Tại thời điểm thụ lý, bị đơn ông Nguyễn Minh Q đang cư trú tại thành phố T, tỉnh Bình Dương. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Ngọc D vắng mặt và có đơn xin giải quyết vắng mặt; bị đơn ông Nguyễn Minh Q đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử vắng mặt bà D, ông Q.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 20/3/2018, bà Phạm Ngọc D và ông Nguyễn Minh Q tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương nên quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông Q là hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Quá trình chung sống, bà D xác định giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông Q không lo làm ăn mà thường đàn đúm bạn bè, ăn chơi, ông Q còn có hành vi đánh bà D đến mức bị hư thai. Từ tháng 8/2018 đến nay, bà D và ông Q đã không còn sống chung. Theo kết quả xác minh tại nơi bà D và ông Q chung sống thể hiện: Hiện nay ông Q và bà D đã không còn chung sống với nhau. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Q nhiều lần để tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng ông Q vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ ông Q không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa bà D và ông Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà D là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung: bà D xác định giữa bà D và ông Q không có con chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[3] Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở.

[4] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bà Phạm Ngọc D phải chịu số tiền 300.000 đồng; ông Q không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 53, 56, 57, 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Ngọc D về việc ly hôn đối với bị đơn là ông Nguyễn Minh Q.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Ngọc D được ly hôn với ông Nguyễn Minh Q.

1.2. Về con chung: Do đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Do đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phạm Ngọc D phải nộp số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0034193 ngày 03/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về