Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn giữa anh H và chị H

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ANH H VÀ CHỊ H

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 314/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1986(có mặt).

- Bị đơn: Chị Hà Thị Bé H, sinh năm: 1986 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 19/6/2019 và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh và chị Hà Thị Bé H cưới nhau vào năm 2009, hôn nhân do tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 16/7/2009 tại UBND xã P, huyện C, tỉnh Long An. Anh và chị H chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó pH sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cải vã nhau. Anh và chị H đã ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay nhưng không ai có thiện chí hàn gắn tình cảm. Nay xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Hà Thị Bé H.

Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Phúc K, sinh ngày 09/3/2012 và cháu Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 27/5/2016, các cháu đang do anh H nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu K và cháu M, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: không có.

Về nợ chung: Không có.

Tòa án tiến hành lập thủ tục thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị đơn chị Hà Thị Bé H vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về thủ tục tố tụng:

Anh Nguyễn Văn H khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Hà Thị Bé H. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

Bị đơn chị Hà Thị Bé H đã được Tòa án thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia vụ án nhưng đều vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn H và chị Hà Thị Bé H chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại UBND xã P, huyện C, tỉnh Long An là hôn nhân hợp pháp. Theo anh H, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cải vã nhau, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng nên anh yêu cầu được ly hôn với chị Hà Thị Bé H.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị H nhưng chị H không đến Tòa án, chứng tỏ chị H không có thiện chí hàn gắn tình cảm với anh H để vợ chồng đoàn tụ, anh H cương quyết ly hôn vì cho rằng vợ chồng không có khả năng hàn gắn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh H và chị H đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc anh H yêu cầu được ly hôn với chị H là có căn cứ. Do đó, cần áp dụng Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Văn H.

[2.2] Về nuôi con chung: Theo chứng cứ do anh H cung cấp, anh H và chị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Phúc K, sinh ngày 09/3/2012 và cháu Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 27/5/2016, các cháu do anh H nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh H yêu cầu được tiếp tục nuôi các con. Xét thấy, anh H là người đang trực tiếp nuôi dưỡng các cháu, nguyện vọng của cháu K là được sống với ba. Do đó, để đảm bảo sự pH triển ổn định, bình thường của các cháu nên Hội đồng xét xử quyết định anh H được tiếp tục nuôi cháu K và cháu M.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Văn H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị H không có văn bản trình bày vấn đề này, anh H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu các đương sự có tranh chấp, sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu.

[2.4] Về án phí: Anh Nguyễn Văn H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn H và chị Hà Thị Bé H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn H về việc “Ly hôn” với chị Hà Thị Bé H.

1.Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn H được ly hôn với chị Hà Thị Bé H.

2.Về nuôi con chung: Anh Nguyễn Văn H được tiếp tục nuôi con chung là cháu Nguyễn Phúc K, sinh ngày 09/3/2012 và cháu Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 27/5/2016. Chị Hà Thị Bé H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bên không nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Toà án có thể thay đổi người nuôi dưỡng cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

3.Về án phí: Anh Nguyễn Văn H phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 0001466 ngày 29/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

4.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn giữa anh H và chị H

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về