Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 13/ 11/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 182/2019/TLST-HNGĐ ngày 12/7/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐST-DS ngày 30 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2019/ QĐ-HPT ngày 25 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1993.

Nơi ĐKNKT: Thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Nơi ở hiện tại: Xóm 2, xã V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa . Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bị đơn: Anh Đàm Văn T, sinh năm 1993.

Trú tại: Thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Chị T vắng mặt có đơn đề nghị. Anh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện và trong bản tự khai ngày 30/7/2019 và đơn xin xử vắng mặt ngày 27/9/2019, chị T trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Đàm Văn T đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 10/4/2014 tại UBND xã P trên cơ sở tự nguyện, Hôn nhân của hai người là hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng chị chung sống với bố mẹ anh T được khoảng 2 năm thì tách riêng và ở nhờ nhà cuả bố mẹ anh T tại thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh T đi làm ăn mấy năm không gửi tiền về lo cho vợ con, vợ chồng lại không tin tưởng nhau về mặt tình cảm. Anh T hay đánh đập chị. Đến tháng 6 năm 2019 thì mâu thuẫn trầm trọng.

Gia đình và chính quyền địa phương giải quyết nhưng không có hiệu quả. Đến tháng 7/2019 thì chị T mang con về nhà mẹ đẻ ở xóm 2, xã V, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó đến nay chị T và anh T sống ly thân.

Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn hanh phúc hôn nhân không đạt được không còn khả năng hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

2. Về con chung: Vợ chồng chị T và anh T có 01 con chung là cháu: Đàm Bảo V, sinh ngày 11/11/2014, hiện nay đang ở với chị T chị đề nghị Tòa xin được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung vì anh T kể từ khi cháu V sinh ra anh T cũng ít quan tâm và có trách nhiệm với con. Anh T đi làm ăn xa nên không thể chăm sóc con chung được, còn chị có tiệm hóa nhỏ buôn bán hàng, thu nhập khoảng 5 triệu đến 6 triệu đồng một tháng. Ngoài ra chị T còn bán hàng online thêm mỗi tháng đưuọc 1 đến 2 triệu đồng.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: chị T xác định, vợ chồng chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Nguyên đơn thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đã có đơn xin xử vắng mặt. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vắng mặt tại phiên tòa lần hai không có lí do vì vậy Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại điều 227,228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối đề nghị như sau, căn cứ: Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Hoàng Thị T.

Xử ly hôn giữa của Chị Hoàng Thị T và anh Đàm Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Đàm Bảo V, sinh ngày 11/11/2014 hiện nay đang ở với chị T cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng , chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

3. Về án phí ly hôn: Chị T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1.Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị Chị Hoàng Thị T và anh Đàm Văn T. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

2. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị T, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Đến ngày 30/9/2019 Tòa án nhân dân huyện N đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Đàm văn T kết hôn với nhau vào ngày 10/4 2014 tại UBND xã P, huyện N trên cơ sở tự nguyện, hôn nhân của hai người là hợp pháp.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị T trình bày là về kinh tế và không tin tưởng nhau về tình cảm nên đã xảy ra mâu thuẫn. Trên thực tế vợ chồng chị T chỉ sống hạnh phúc được mấy năm thì phát sinh mâu thuẫn. Chị T và anh T đã sống ly thân từ tháng 7/2019 chị T đã mang con về nhà mẹ đẻ ở tỉnh Thanh Hóa ở từ đó hai người không quan tâm gì đến nhau nữa.

Từ khi thụ lý vụ án,Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chị T chấp hành đầy đủ còn anh T vắng mặt không có lý do, mặc dù anh biết việc chị T ly xin ly hôn (bố đẻ anh T là ông Đàm Tiến T đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và thông báo cho anh biết), nhưng anh vẫn không về giải quyết việc ly hôn với chị T. Điều này chứng tỏ anh T không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T. Xét khả năng đoàn tụ của hai người thực sự không còn, đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T. Xử ly hôn giữa chị T và anh T là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

4. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Vợ chồng chị T có một con chung là cháu Đàm Bảo V, sinh ngày 11/11/2014 hiện nay đang ở với chị T. Xét đề nghị của chị T, chị có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con vi chị có thu nhập vì chị có tiệm hóa nhỏ buôn bán hàng, thu nhập khoảng 5 triệu đến 6 triệu đồng một tháng. Ngoài ra chị T còn bán hàng online thêm mỗi tháng được 1 đến 2 triệu đồng. Từ khi con chung còn nhỏ đã ở với chị, cháu đã ổn định, phát triển về nhiều mặt. Đối với anh T là lao động tự do, trong cuộc sống anh cũng không quan tâm đến con. Vì vậy cần giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc.Về cấp dưỡng nuôi con chung cần chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, do đó anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

5. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ lời khai và yêu cầu của chị T và kết quả xác minh thì vợ chồng chị T không có tài sản chung và công nợ chung nên không đặt ra việc giải quyết.

6.Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp theo quy định của Pháp luật. Số tiền 300.000 đồng, tạm ứng án phí ly hôn, chị T đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng: Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị T. Xử ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Đàm Văn T.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Đàm Bảo V, sinh ngày 11/11/2014 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp 300.000 đồng, chị T đã nộp 300.000 đồng , tạm ứng án phí ly hôn tại biên lai thu số: 0000 219 ngày 12/7/2019, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm chị T và anh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về