Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 11 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 289/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HN ngày 17 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1989; thường trú: Số 58/A1, tổ 11, khu phố B, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

2/ Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1995; thường trú: Ấp T, xã L, huyện N (nay là khóm T, phường 2, thị xã N), tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Số 58/A1, tổ 11, khu phố B, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1965; cùng thường trú: Số 58/A1, tổ 11, khu phố B, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/3/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Thanh T có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm thì tổ chức lễ cưới năm 2012 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 63 ngày 14/8/2018.

Sau khi cưới, vợ chồng chung sống cùng bố mẹ chị T tại 58/A1, tổ 11, khu phố B, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không chịu đi làm, không quan tâm, chăm lo gia đình; tham gia đánh bạc bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội đánh bạc vào cuối năm 2017. Ngoài ra, anh T còn không tôn trọng bố mẹ chị T dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2018, nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 27/6/2013. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị T làm công nhân tại Công ty TNHH A, thu nhập trung bình 8 triệu đồng/tháng.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị Nguyễn Thị Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/5/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với nguyên đơn về thời gian tìm hiểu, điều kiện kết hôn, nơi ở của vợ chồng sau khi cưới. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do công việc của anh T không ổn định, thu nhập không đều nên không phụ được vợ các chi phí sinh hoạt hàng ngày. Cuối năm 2017, anh T tham gia đánh bạc và bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt về tội đánh bạc. Ngoài ra, anh T còn có mâu thuẫn với bố mẹ chị T dẫn đến vợ chồng cãi nhau. Anh T buồn chán nên vợ chồng sống ly thân từ năm cuối năm 2018. Chị T yêu cầu ly hôn, anh T không đồng ý do thương con không muốn con khổ.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 27/6/2013, hiện đang sống cùng chị T . Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh T đồng ý giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng nuôi con do công việc phụ hồ hiện nay không ổn định.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Anh Nguyễn Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/5/2019, người làm chứng ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:

Ông T và bà T là bố mẹ của chị Nguyễn Thị Ngọc T , còn Nguyễn Thanh T là con rể. Sau khi cưới, vợ chồng T chung sống cùng ông bà. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 2-3 năm đầu, sau đó thường xuyên cãi nhau, nguyên nhân cãi nhau là vì kinh tế gia đình, T tham gia đánh bạc bị Tòa án xét xử về tội đánh bạc. Cuối năm 2018, vợ chồng T sống ly thân. Nay T yêu cầu được ly hôn, ông bà không có ý kiến gì.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai, vì vậy Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Thanh T được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt đến lần thứ 2, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Thanh T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 63 ngày 14/8/2018 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Thanh T đều xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình khó khăn, anh T tham gia đánh bạc và có mâu thuẫn với bố mẹ chị T dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2018. Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội phụ nữ phường B nhưng Hội phụ nữ không biết nguyên nhân mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân của anh T và chị T. Căn cứ vào sự thừa nhận của nguyên đơn, bị đơn và lời khai của người làm chứng có cơ sở xác định trong cuộc sống giữa chị T và anh T có nhiều mâu thuẫn, không hàn gắn được, đã sống ly thân. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên không đồng ý đoàn tụ, anh T xác định còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn, nhưng không đưa ra được phương án để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

[2.2] Về con chung: Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 27/6/2013. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Quá trình tố tụng, anh T đồng ý giao con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng nếu Tòa án cho ly hôn. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay cháu Nhân sống với mẹ vẫn phát triển tốt về mọi mặt, chị T là công nhân có thu nhập ổn định có khả năng bảo đảm điều kiện về vật chất để nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, tiếp tục giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị T nên Tòa án ghi nhận.

[2.4] Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Tòa án nên chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc T về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Nguyễn Thanh T .

1.1 Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T (Giấy chứng nhận kết hôn số 63 ngày 14/8/2018 do Ủy ban nhân dân phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương cấp).

1.2 Về con chung: Anh Nguyễn Thanh T giao con chung tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 27/6/2013 cho chị Nguyễn Thị Ngọc T tiếp tục nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Ngọc T và anh Nguyễn Thanh T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Ngọc T không yêu cầu anh Nguyễn Thanh T cấp dưỡng nuôi con.

1.4 Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028323 ngày 04/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về