Bản án 62/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 62/2019/DS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng, Tòa án xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 160/2019/TLST-DS ngày 28/8/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2019/QĐST-DS ngày 17/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 160/2019/QĐST-DS ngày 14/11/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP T; Địa chỉ: Lầu 8, số 266-268 đường N, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền: Ông N, sinh năm 1983; chức vụ: Chuyên viên Quản lý nợ - Phòng kiểm soát rủi ro; Địa chỉ: Số 130A - 130 - 132 đường Đ, phường C, quận C, thành phố Đà Nẵng (theo Giấy ủy quyền số 3964/2018/GUQ-PL ngày 10/12/2018 của Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP T và Giấy ủy quyền số 2706/2019/UQ-CNĐN ngày 27/6/2019 của Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng tại thành phố Đà Nẵng); có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông N; sinh năm 1973; địa chỉ: Số K428A/4 đường V, phường H, quận K, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - Ông N trình bày: Ngày 08/04/2016, ông N có ký với Ngân hàng TMCP T 01 Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu được gọi chung là Hợp đồng).

Căn cứ thu nhập của ông N, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 30.000.000 đồng với mục đích: tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông N đã thực hiện 7 giao dịch với số tiền: 42.687.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay ông N đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 31.500.000 đồng. Trong đó: thanh toán gốc: 27.337.268 đồng, lãi + phí phát sinh: 4.162.732 đồng. Lãi suất áp dụng: 2.5%/tháng.

Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông N vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông N vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 31/5/2017 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Tính đến ngày 29/11/2019, ông N còn nợ Ngân hàng các khoản sau: Nợ gốc 17.446.974 đồng, lãi quá hạn 19.889.808 đồng, tổng cộng 37.336.782 đồng (Bằng chữ: Ba mươi bảy triệu ba trăm ba mươi sáu ngàn bảy trăm tám mươi hai đồng) Mặc dù Ngân hàng đã thường xuyên đôn đốc, nhiều lần làm việc trực tiếp và yêu cầu ông N có trách nhiệm thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, đồng thời Ngân hàng cũng tạo điều kiện về mặt thời gian để ông N trả nợ, tuy nhiên ông N vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản đã qui định tại Hợp đồng đã ký.

Do vậy Ngân hàng TMCP T đề nghị Tòa án tuyên buộc ông N phải thanh toán nợ vay cho Ngân hàng TMCP T số tiền nợ gốc và lãi phát sinh: 37.336.782 đồng tính đến ngày 29/11/2019 (Trong đó nợ gốc: 17.446.974 đồng, lãi phát sinh: 19.889.808 đồng). Và lãi quá hạn phát sinh tiếp theo tính từ ngày 30/11/2019 theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) đã ký vào ngày 08/04/2016 trên số tiền nợ gốc còn lại cho đến khi ông N thanh toán xong khoản nợ.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng pháp luật. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc ông N phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP T số tiền là 37.336.782 đồng tính đến ngày 29/11/2019 (Trong đó nợ gốc: 17.446.974 đồng, lãi phát sinh: 19.889.808 đồng) và lãi quá hạn phát sinh tiếp theo tính từ ngày 30/11/2019 theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký vào ngày 08/04/2016 trên số tiền nợ gốc còn lại cho đến khi ông N thanh toán xong khoản nợ và phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là ông N đã được Tòa án thực hiện các thủ tục triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng đến lần thứ hai vẫn không có mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt đương sự nói trên.

[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng do ông N đăng ký ngày 08/4/2016 và được Ngân hàng phê duyệt ngày 11/4/2016 để ông N được sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng với hạn mức 30.000.000 đồng, lãi suất trong hạn 2,5%/tháng. Quá trình sử dụng thẻ tín dụng, ông N không thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng, ông thực hiện đợt thanh toán cuối cùng vào ngày 31/1/2017 nên ngày 31/5/2017 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Do đó, ngày 08/7/2019, Ngân hàng TMCP T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N phải trả cho Ngân hàng số tiền là 33.956.387 đồng (trong đó, số tiền gốc là 17.446.974 đồng và lãi quá hạn là 16.509.413 đồng) cùng tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận và phải chịu mọi chi phí phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, Ngân hàng TMCP T yêu cầu Tòa án buộc ông N phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền là 37.336.782 đồng (Trong đó nợ gốc 17.446.974 đồng, lãi phát sinh 19.889.808 đồng tính đến ngày 29/11/2019). Việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về phần lãi như trên là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.

[4] Đối với bị đơn – ông N: Từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử không có mặt theo giấy triệu tập; thông báo của Toà án, không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải và cũng không tham gia phiên toà nên không có ý kiến lưu hồ sơ vụ án.

[5] Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP T thì thấy: Căn cứ "Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng" của Ngân hàng phê duyệt cho ông N hạn mức sử dụng thẻ tín dụng cũng như Bản tóm tắt sao kê thể hiện các lần giao dịch cũng như thanh toán của ông N trong quá trình sử dụng thẻ tín dụng; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định Ngân hàng TMCP T đã cấp thẻ tín dụng cho ông N, hạn mức thẻ: 30.0000.000 đồng, lãi suất trong hạn là 2,5%/tháng; lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn. Tính đến ngày 29/11/2019, ông N còn nợ Ngân hàng số tiền là 37.336.782 đồng (Trong đó nợ gốc 17.446.974 đồng, lãi phát sinh 19.889.808 đồng). Đây là Hợp đồng tín dụng, có nội dung và hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên khi ông N vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền khởi kiện. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận; cần buộc ông N phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay đối với số tiền còn nợ như trên cho Ngân hàng theo quy định tại Điều 471, khoản 1, khoản 5 Điều 474 Bộ luật dân sự 2005 và các Điều 91, 98 Luật các Tổ chức tín dụng 2010.

[6] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn – ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm: 37.336.782 đồng x 5% ~ 1.866.839 đồng.

[7] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 63, 147, 180, 227, 228, 235, 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 305, 401, 405, 471 và khoản 1, khoản 5 Điều 474 Bộ luật Dân sự 2005; các Điều 91, 98 Luật các Tổ chức tín dụng 2010;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện v/v "Tranh chấp Hợp đồng tín dụng" của Ngân hàng TMCP T đối với ông N.

Buộc ông N phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP T số tiền là 37.336.782đ (Ba mươi bảy triệu ba trăm ba mươi sáu ngàn bảy trăm tám mươi hai đồng), bao gồm: Nợ gốc 17.446.974 đồng, lãi phát sinh 19.889.808 đồng tính đến ngày 29/11/2019. Kể từ ngày 30/11/2019 mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì số tiền lãi tiếp tục phát sinh cho đến ngày thanh toán hết mọi khoản nợ với mức lãi suất theo "Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng " của Ngân hàng TMCP T.

2. Án phí và chi phí tố tụng khác:

- Án phí Dân sự sơ thẩm: 1.866.839đ (Một triệu, tám trăm sáu mươi sáu ngàn tám trăm ba mươi chín đồng), ông N phải chịu.

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP T số tiền tạm ứng án phí 849.000đ (Tám trăm bốn mươi chín ngàn đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0005079 ngày 28-8-2019.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:62/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về