Bản án 62/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2017/HSST NGÀY 22/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22/9/2017, tại Nhà văn hóa khu dân cư T, phường S, thị xã C, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2017/HSST ngày 08/9/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1985

Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá:12/12; Con ông Nguyễn Đức T (ông T được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba năm 2001), con bà Đoàn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị T (đã ly hôn) và 02 con; Tiền sự: Không; có 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2015/HSST ngày 13/01/2015 của Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương xử phạt Nguyễn Văn Đ 16 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã chấp hành xong án phí tháng 12/2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/10/2016, chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/7/2017, đến ngày 13/7/2017 thì tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương, có mặt.

* Người bị hại: Anh Dương Văn Q, sinh năm 1978

Trú quán: Khu dân cư N, phường C, thị xã C, tỉnh Hải Dương. Anh Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Văn Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chí Linh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 13 giờ, ngày 11/7/2017, Nguyễn Văn Đ cùng với anh Lê Văn N trú tại thôn B, xã H, huyện Đ, tỉnh Quảng Ninh ăn cơm ở ngã 6, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên Đ nảy sinh ý định trộm cắp xe môtô để bán lấy tiền. Đ mượn xe môtô của anh N đi về nhà để lấy 01 vam phá khóa hình chữ “T” có đặc điểm mũi vam được làmbằng kim loại sáng màu, hình trụ tròn dài khoảng 09 cm được cuốn bằng băng dính màu đen, một đầu được đánh dẹt, một đầu rỗng hình tứ giác nối với 01 tay công bằng kim loại sáng màu dài khoảng 13 cm, hình trụ tròn, đường kính 0,8 cm, một đầu dẹt, một đầu có gắn với kim loại hình trụ vuông dài 0,7 cm cất trong túi quần đang mặc. Sau đó, Đ quay lại quán cơm và bảo với anh N “Chở tao lên nhà nghỉ ở Chí Linh”, anh N đồng ý chở Đ lên nhà nghỉ Q ở khu T, xã H, thị xã C, tỉnh Hải Dương (Anh N không biết ý định của Đ đi trộm cắp tài sản). Sau đó, anh N đi về nhà còn Đ đi vào nhà kho dưới tầng hầm của nhà nghỉ nấp ở đó chờ cơ hội để trộm cắp tài sản. Khoảng 14 giờ cùng ngày, anh Dương Văn Q điều khiển xe môtô nhãn hiện HonDa, loại xe Ablade, biển kiểm soát 34C1 - 270.14 đến thuê phòng nghỉ tại nhà nghỉ Q, anh Q dựng xe ở tầng hầm nhà nghỉ, đầu xe quay vào trong, đuôi xe quay ra ngoài. Đ quan sát thấy anh Q đi lên tầng trên, lúc này trong tầng hầm không có ai, Đ đi đến cạnh chiếc xe của anh Q, quay đầu xe ngược lại hướng ra phía ngoài, rồi lấy chiếc vam phá khóa cho vào ổ khóa vặn theo chiều kim đồng hồ để phá khóa, khi vặn được một nửa thì đầu vam bị xoắn lại. Đúng lúc này, chị Nguyễn Thị T là chủ nhà nghỉ phát hiện kêu gọi quần chúng nhân nhân bắt giữ Đ thu giữ chiếc vam phá khóa cùng chiếc xe môtô của anh Q giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Chí Linh giải quyết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 136/HĐĐG ngày 12/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã Chí Linh kết luận: Chiếc xe môtô nhãn hiệu HonDa, loại xe Ablade, biển kiểm soát 34C1-270.14, màu đơn đỏ, đen, xám tại thời điểm ngày 11/7/2017 trị giá 36.900.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 59/VKS - HS ngày 06/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu, thừa nhận việc truy tố của Viện kiểm sát là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 18, khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 21 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/7/2017; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết; Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 01 chiếm vam phá khóa đã thu giữ của bị cáo; Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, những người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ, ngày 11/7/2017, tại nhà nghỉ Q thuộc khu T, xã H, thị xã C, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn Đ đã lợi dụng sơ sở, lén lút chiếm đoạt của anh Dương Văn Q 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu HonDa, loại xe Ablade, biển kiểm soát 34C1-270.14 trị giá 36.900.000 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, tạo sự hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý và bảo vệ tài sản. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện vì mục đích tư lợi. Khi bị cáo đang dùng vam để phá khóa chiếc xe môtô của anh Q thì bị phát hiện và bắt giữ là nguyên nhân ngoài ý muốn của bị cáo. Do vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chí Linh đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Tại bản án án hình sự sơ thẩm số 71/2015/HSST của Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã xử phạt bị cáo 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa được xóa án tích đối với bản án này, nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận tội; bị cáo có bố đẻ được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba nên bị cáo được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm p khoản 1 và khoản2 Điều 46 Bộ luật hình  sự.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” và phải chịu sự giáo dục, cải tạo của Nhà nước nhưng bị cáo không lấy đó là bài học để tu dưỡng bản thân, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém.

Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một hình phạt tù nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo mục đích trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Dương Văn Q đã nhận lại chiếc xe do bị cáo chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Chiếc vam phá khóa đã thu giữ là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về án phí: Bị cáo có tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” (Chưa đạt).

Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 18, khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/7/2017.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu hủy: 01 đầu vam phá khóa bằng kim loại dài 9,6 cm, một đầu hình trụ tròn, đường kính 1,1 cm, ở giữa hình trụ tròn là hình vuông rỗng có cạnh dài 0,7 cm, được quấn băng dính màu đen, đầu còn lại được mài dẹt, mỏng dần về phía đầu, phần đầu bị cong xoắn, quấn băng dính bên ngoài màu đen; 01 tay công bằng kim loại sáng màu, dài 13 cm, phần tay cầm hình trụ tròn có đường kính kính 0,8 cm, bọc băng dính màu đen, phần đầu tay công dẹt, rộng 2,5 cm, đầu tay công có gắn với một đoạn kim loại hình trụ vuông có chiều dài 0,7 cm.

(Vật chứng hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/9/2017 giữa Công an thị xã Chí Linh và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Chí Linh).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2017/HSST ngày 22/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:62/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về