Bản án 62/2017/HSST ngày 11/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM PỒ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 62/2017/HSST NGÀY 11/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Nậm Pồ; Tòa án nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 61/2017/HSST ngày 06/7/2017 đối với bị cáo:

Sùng A S   sinh năm: 1977 tại M–Yên Bái.

Trú tại: Bản H, xã P- N - Điện Biên; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: 5/12; Bố đẻ: Sùng Nủ C (đã chết) và mẹ đẻ: Giàng Thị B; Vợ: Lý Thị D sinh năm 1983; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2016; Bị cáo có 09 anh chị em, bị cáo là con thứ 9;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị bắt ngày 28/4/2017, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Sùng A S bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 28/4/2017 Sùng A S một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 27B1 - 296.02 từ nhà ở bản H, xã P lên khu vực Mốc 71 biên giới Việt – Lào, mang theo số tiền 500.000đ, với mục đích gặp ai bán heroine thì mua về để bán lẻ kiếm lời. Khi đến khu vực mốc 71 biên giới Việt - Lào, S để xe máy ở một lán nương rồi đi bộ theo đường mòn tìm trâu. S đi được một đoạn thì gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, S không quen biết. Khi gặp S ông ta nói tiếng dân tộc gì S không hiểu. Sau đó ông ta dùng tay phải chỉ vào tay trái của ông ta, S nhìn thấy ông ta đang cầm gói heroine trên tay trái. S gật đầu và hiểu ông ta muốn bán heroine. S lấy ra 05 tờ tiền mỗi từ mệnh giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), tổng là 500.000VNĐ (Năm trăm nghìn đồng) đưa cho ông ta, rồi ông ta mở gói heroine ra dùng dao cắt một ít dùng giấy ni lông xanh gói lại, đưa cho S. S cầm gói heroine rồi tiếp tục đi tìm trâu. Còn người đàn ông đó đi đâu S không rõ. Khi S tìm thấy trâu, S quay lại chỗ để xe máy. Khi về đến chỗ để xe máy, S lấy gói heroine nhét vào hậu môn của S rồi điều khiển xe về nhà, khi về đến bản T, xã P thì gặp tổ công tác Đồn biên phòng P đang làm nhiệm vụ tại đó. Tổ công tác yêu cầu S dừng xe để kiểm tra hành chính, do S sợ quá S đã tự lấy gói heroine đã cất giấu từ hậu môn ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng vụ án.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng ngày 29/4/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nậm Pồ, số ma túy thu giữ của Sùng A S có trọng lượng 3,37 gam.

Tại bản kết luận giám định số 425/GĐ - PC54 ngày 21/5/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu vật gửi giám định được trích  ra  từ  vật  chứng  thu  giữ  của  Sùng  A  S  là  chất  ma  túy.  Loại  heroin.

Bản cáo trạng số 45/QĐ-VKS-HS ngày 05 tháng 7 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên truy tố bị can Sùng A S về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194/BLHS.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sùng A S phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194 và điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, xử phạt Sùng A S mức án từ 42 đến 48 tháng tù; Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 76/BLTTHS để xử lý vật chứng; Không đề xuất áp dụng hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

XÉT THẤY

Bị cáo Sùng A S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hồi 16 giờ 00 phút ngày 28/4/2017 Sùng A S đã bị Tổ công tác Đồn biên phòng P bắt quả tang tại lán nương bản T, xã P, huyện N, thu giữ 3,37 gam heroine, với mục đích mua về để bán kiếm lời. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Sùng A S đã có hành vi phạm tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194/BLHS.

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý về các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo Sùng A S là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo S đã tiếp tay và gieo rắc “cái chết trắng” tại địa phương. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình và chịu mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa chung trong nhân dân.

Xét nhân thân: Bị cáo Sùng A S từ nhỏ sinh ra và lớn lên tại huyện M, Yên Bái, được học đến lớp 5/12, năm 1990 cùng gia đình chuyển đến sinh sống tại bản H, xã P, huyện N. Do hám lợi từ việc mua bán trái phép chất ma túy và ham chơi đua đòi nên bị cáo đã phạm tội trong vụ án này. HĐXX thấy bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo nhận thức pháp luật hạn chế, là trụ cột trong gia đình, tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải. Đây là tình tiết để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2  Điều 46/BLHS.

Xét hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 194 BLHS, xét thấy bị cáo Sùng A S có hoàn cảnh gia đình khó khăn không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Sùng A S, do không rõ tên tuổi địa chỉ nên không đủ cơ sở để xem xét xử lý.

Vật chứng vụ án: Gồm 3,37 gam heroine (đã trích mẫu gửi giám định 0,27 gam, không hoàn lại) và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại BLADE màu đen - xám, số khung RLHJA3612EY511589, số máy JA36E-0082277, biển kiểm soát 27B1 – 296.02 là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

Xét thấy cần căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 41/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 76/BLTTHS, tuyên tịch thu để tiêu huỷ số heroine và tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với chiếc xe máy.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 99 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14; thấy bị cáo Sùng A S có giấy chứng nhận hộ nghèo số 319/BCĐ do Ủy ban nhân dân xã P cấp, bị cáo thuộc hộ nghèo năm 2017 nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của Chính phủ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố Sùng A S phạm tội: Mua bán trái phép chất ma tuý.

 Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng A S 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, kể từ ngày bắt: 28/4/2017.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41/BLHS; Điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên tịch thu tiêu huỷ 3,1 gam heroine và tịch thu để sung công quỹ Nhà nước đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu  HONDA loại BLADE  màu  đen  -  xám,  số  khung  RLHJA3612EY511589,  số  máy  JA36E- 0082277, biển kiểm soát 27B1 – 296.02, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/7/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nậm Pồ.

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Sùng A S được miễn án phí Hình sự sơ thẩm do thuộc hộ nghèo theo quy định của Chính phủ.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2017/HSST ngày 11/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:62/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về