Bản án 61/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:60/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Trịnh Văn H, sinh ngày 12 tháng 12 năm 1978 tại H. Nơi cư trú: Số đường N, Tr, phương Đ, quận HA, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nm; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nm; con ông Trịnh Văn L và bà Khoa Thị X; có vợ là Bùi Thị Lan A và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 30/01/2021, tạm giam ngày 02/02/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 45 phút ngày 30/01/2021, tại khu vực trước cửa khách sạn Hoàng Gia, địa chỉ: đường L, phường Đ, quận N, thành phố H, Công an quận Ngô Quyền, thành phố H bắt quả tang Trịnh Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Thu giữ trong túi áo khoác bên trái của Trịnh Văn H đang mặc 01 bao thuốc lá Vinataba trong có 01 gói nilon kích thước khoảng 4 x 4cm chứa 04 viên nén màu xanh, mỗi viên đều có kích thước khoảng 0,5 x 1cm trên một mặt có in logo hình R (niêm phong mẫu số 1); 02 điếu thuốc cuộn mỗi điếu dài khoảng 7cm trong chứa các sợi thảo mộc khô vụn (niêm phong mẫu số 2).

Ngoài ra cơ quan Công an còn thu giữ của Trịnh Văn H 01 điện thoại OPPO đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen bên trong có 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh Văn H và số tiền 1.410.000 đồng; 01 xe máy nhãn hiệu Airblade BKS:15B2-616.94.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trịnh Văn H tại số 507 đường N, Trung Hành 9, phường Đ, quận HA, thành phố H, cơ quan Công an thu giữ:

Thu trên mặt bàn tại gác lửng: 06 gói nilon kích thước mỗi gói 3 x 4cm, trong chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong mẫu số 3); 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 8cm, đường kính khoảng 5cm chứa 4 viên nén màu xanh hình chữ nhật kích thước khoảng 0,8 x1,2cm (niêm phong mẫu số 4A); 01 túi nilon kích thước khoảng 6x8cm có chứa 10 viên nén gồm: 06 viên màu tím hình bánh răng, một mặt in logo hình vương miện (niêm phong mẫu số 4B) và 04 viên hình chữ nhật màu nâu vàng, một mặt có chữ Redbull (niêm phong mẫu số 4C); 01 túi nilon kích thước khoảng 15 x 8cm chứa nhiều cục thảo mộc khô màu xanh (niêm phong mẫu số 5); 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 10cm, đường kính khoảng 7cm chứa 09 điếu cuộn màu trắng, mỗi điếu dài khoảng 7cm (niêm phong mẫu số 6); 01 hộp nhựa màu xanh hình tròn đường kính khoảng 6cm bên trong còn bám dính sợi thảo mộc khô vụn (niêm phong mẫu số 7); 01 cân điện tử màu trắng hình vuông, kích thước khoảng 15 x 15cm; 22 vỏ gói nilon màu trắng có kích thước mỗi gói khoảng 14 x 7cm; 08 vỏ gói nilon kích thước mỗi vỏ gói khoảng 3 x 4cm; 01 hộp giấy màu đỏ hình chữ nhật, kích thước khoảng 5 x 10 x 2cm bên trong chứa 06 gói giấy nhãn hiệu Rollies.

Thu trên mặt tủ tại phòng khách tầng 1: 01 vỏ bao thuốc lá 555 trong chứa 01 điếu thuốc cuộn màu trắng, kích thước khoảng 5cm (cùng niêm phong mẫu số 6).

Kết luận giám định số 164/KLGĐ-MT ngày 02/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H, kết luận:

Bốn viên nén màu xanh của mẫu số 1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,37 gam là loại MDMA.

Thảo mộc khô, vụn của mẫu số 2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,62 gam là loại cần sa.

Tinh thể màu trắng của mẫu số 3 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,85g là loại Ketamine.

Bốn viên nén màu xanh của mẫu số 4A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,32g là loại MDMA.

Sáu viên nén màu tím của mẫu số 4B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,15gam là loại MDMA.

Bốn viên nén màu nâu vàng của mẫu số 4C gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,59 gam, là loại MDMA.

Hoa, lá thảo mộc khô của mẫu số 5 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 7,48 gam là loại Cần sa.

Thảo mộc khô, vụn của mẫu số 6 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,91 gam, là loại Cần sa.

Thảo mộc khô, vụn bám dính trong hộp nhựa tròn màu xanh của mẫu số 7 gửi giám định là ma túy, loại cần sa, không đủ điều kiện xác định khối lượng cần sa.

Quá trình điều tra Trịnh Văn H khai nhận: Do hoàn cảnh khó khăn, khoảng giữa tháng 11 năm 2020, Trịnh Văn H nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho khách kiếm lời. Nhờ mối quan hệ quen biết xã hội, Trịnh Văn H gặp và mua của một người đàn ông tên Tài (không biết địa chỉ, lai lịch cụ thể) 01 túi cần sa kích thước khoảng 8 x 15cm bên trong chứa nhiều cục thảo mộc khô màu xanh với giá 4.500.000 (bốn triệu năm trăm nghìn) đồng, 19 viên thuốc lắc với giá 3.750.000 (ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn) đồng và 06 gói ma túy Ketamine kích thước mỗi gói khoảng 3 x 4 cm với giá 6.000.000 (sáu triệu) đồng. Sau đó, Trịnh Văn H một mình đi đến khu vực ngã tư đường Lê Lợi, phường Cầu Đất, quận Ngô Quyền, thành phố H mua của một người không quen biết 200.000 đồng giấy cuộn cần sa. Mua được ma túy và dụng cụ, Trịnh Văn H mang về nhà, lấy ma túy cần sa nhồi vào giấy thành các điếu thuốc kích thước mỗi điếu dài khoảng 7cm. Với số ma túy cần sa đã mua Trịnh Văn H dự định sẽ cuộn được khoảng 50 điếu cần sa, tuy nhiên, Trịnh Văn H mới cuộn được khoảng 13 điếu. Trịnh Văn H cất giấu toàn bộ số ma túy trên vào trong các lọ nhựa, hộp giấy để ở gác lửng số đường N, Trung Hành 9, phường Đ, quận HA, thành phố H để khi có khách hỏi Trịnh Văn H sẽ bán lại.

Trịnh Văn H dự định bán 270.000 đồng/ viên thuốc lắc, 1.300.000 đồng/ gói Ketamine và 100.000 đồng/điếu cần sa. Nếu bán trót lọt số ma túy trên, Trịnh Văn H sẽ thu được tổng số tiền là 17.660.000 đồng (trong đó gồm 4.860.000 đồng tiền thuốc lắc, 7.800.000 đồng tiền Ketamine và 5.000.000 đồng tiền cần sa) Trịnh Văn H hưởng lợi 3.410.000 đồng (trong đó gồm 1.110.000 đồng tiền thuốc lắc, 1.800.000 đồng tiền Ketamine và 500.000 đồng tiền cần sa).

Ngày 30/01/2021, khi Trịnh Văn H đang ở nhà thì có 01 Nm thanh niên tên Huy (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) gọi điện thoại hỏi mua 04 viên thuốc lắc và 02 điếu cần sa, hẹn tối cùng ngày giao hàng, Trịnh Văn H đồng ý. Khoảng 19 giờ, Nguyễn Hải Nm, sinh năm 1989; nơi cư trú: Số đường Mạc Đình Phúc, phường Cát Bi, quận HA, thành phố H đến nhà Trịnh Văn H chơi. Khoảng 20 giờ, Trịnh Văn H lên gác lửng lấy ma túy rồi bảo Nguyễn Hải Nm “Chở anh đi có việc”, Nguyễn Hải Nm đồng ý. Sau đó, Nguyễn Hải Nm điều khiển xe máy nhãn hiệu Airblade BKS: 15B2-616.94 chở Trịnh Văn H. Khi cả hai đi đến khu vực trước cửa khách sạn Hoàng Gia thì bị cơ quan Công an bắt quả tang.

Lời khai nhận tội nêu trên của Trịnh Văn H, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng cùng vật chứng thu giữ và kết luận giám định.

Ngoài ra, Trịnh Văn H còn khai: Sau khi mua được 19 viên thuốc lắc, Trịnh Văn H đã tự sử dụng 01 viên, còn lại 18 viên thuốc lắc cùng toàn bộ số ma túy Ketamine và cần sa, Trịnh Văn H đều cất giữ để bán lại kiếm lời. Ngoài lần bị cơ quan Công an bắt giữ trên, Trịnh Văn H đã bán ma túy cho một Nm thanh niên không quen biết 01 điếu cần sa với giá 100.000 đồng vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 30/01/2021 tại trước cửa nhà Trịnh Văn H ở số 507 đường N, Trung Hành 9, phường Đ, quận HA, thành phố H. Khi nhờ Nguyễn Hải Nm chở, Trịnh Văn H không cho Nguyễn Hải Nm biết về việc Trịnh Văn H đi bán ma túy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Airblade BKS: 15B2-616.94 thuộc sở hữu của ông Bùi Đức Kiên, sinh năm 1964 là bố vợ của Trịnh Văn H. Do ông Bùi Đức Kiên không biết Trịnh Văn H sử dụng xe để đi bán ma túy, ngày 05/02/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Bùi Đức Kiên.

Về vật chứng: 01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Phạm Văn Bình, Trịnh Văn H, Đào Trọng Kiên, Nguyễn Hải Nm; 01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Đỗ Thị Hoa; 01 ví da màu đen; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh Văn H; Số tiền 1.410.000 đồng; 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng có thông tin số IMEI 1: 860577045027030, IMEI 2: 860577045027022 (không kiểm tra chất lượng bên trong); 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 08cm, đường kính khoảng 05cm; 01 lọ nhựa hình trụ tròn cao khoảng 10cm, đường kính khoảng 07cm; 01 cân điện tử màu trắng hình vuông kích thước khoảng 15 x 15cm; 22 vỏ túi nilon màu trắng có cùng kích thước khoảng 07 x 14 cm; 08 vỏ túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng 03 x 04cm; 01 hộp giấy màu đỏ hình chữ nhật kích thước khoảng 05 x 10 x 20cm; 06 gói giấy có nhãn hiệu Rollies, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố H quản lý.

Tại Bản Cáo trạng số 64/CT-VKSNQ ngày 02/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố H đã truy tố bị cáo Trịnh Văn H phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, lời khai của những người chứng kiến, vật chứng thu giữ được và Kết luận giám định số 164/KLGĐ ngày 02/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trịnh Văn H với mức án từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Phạm Văn Bình, Trịnh Văn H, Đào Trọng Kiên, Nguyễn Hải Nm;

01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Đỗ Thị Hoa; 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 08cm, đường kính khoảng 05cm; 01 lọ nhựa hình trụ tròn cao khoảng 10cm, đường kính khoảng 07cm; 01 cân điện tử màu trắng hình vuông kích thước khoảng 15 x 15cm; 22 vỏ túi nilon màu trắng có cùng kích thước khoảng 07 x 14 cm; 08 vỏ túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng 03 x 04cm; 01 hộp giấy màu đỏ hình chữ nhật kích thước khoảng 05 x 10 x 20cm; 06 gói giấy có nhãn hiệu Rollies, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng có thông tin số IMEI 1: 860577045027030, IMEI 2:

860577045027022 (không kiểm tra chất lượng bên trong). Trả lại cho bị cáo 01 ví da màu đen; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh Văn H; số tiền 1.410.000 đồng nH tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố H, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố H, Kiểm sát viên:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và Kết luận giám định số 164/KLGĐ ngày 02/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận và các tài liệu điều tra khác được Cơ quan điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với sự thật khách quan, đủ cơ sở kết luận: Ngày 30/01/2021, tại trước cửa khách sạn Hoàng Gia, địa chỉ lô 7C đường Lê Hồng Phong, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố H, Trịnh Văn H bị bắt quả tang khi đang cất giữ trái phép 1,37 gam MDMA và 0,62 gam cần sa. Ngoài ra, Trịnh Văn H còn cất giấu tại nhà 5,06 gam MDMA, 10,39 gam cần sa và 4,85 gam Ketamine. Tổng khối lượng 6,43 gam MDMA, 11,01 gam cần sa và 4,85 gam Ketamine Trịnh Văn H đều cất giữ đều nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Căn cứ khoản 3 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ- CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, xác định tổng khối lượng các chất ma túy Trịnh Văn H cất giữ: Tổng tỉ lệ phần trăm về khối lượng của MDMA, cần sa và Ketamine so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại điểm b, c, e khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự là 6,43/30 x100 + 11,01/25.000 x100 + 4,85/100 x100 = 21,43% + 0,04% + 4,85% = 26,32% thuộc trường hợp dưới 100%. Tại thời điểm thực hiện hành vi (ngày 30/01/2021), bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" được quy định tại điểm p “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng...của các chất đó trương đương với khối lượng...chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này” khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố H truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng là đúng quy định của pháp luật.

- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[3] Hành vi của bị là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm hình sự khác.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Căn cứ biên bản xác minh ngày 02/02/2021 cho thấy bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Phạm Văn Bình, Trịnh Văn H, Đào Trọng Kiên, Nguyễn Hải Nm;

01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Đỗ Thị Hoa; 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 08cm, đường kính khoảng 05cm; 01 lọ nhựa hình trụ tròn cao khoảng 10cm, đường kính khoảng 07cm; 01 cân điện tử màu trắng hình vuông kích thước khoảng 15 x 15cm; 22 vỏ túi nilon màu trắng có cùng kích thước khoảng 07 x 14 cm; 08 vỏ túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng 03 x 04cm; 01 hộp giấy màu đỏ hình chữ nhật kích thước khoảng 05 x 10 x 20cm; 06 gói giấy có nhãn hiệu Rollies, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng có thông tin số IMEI 1: 860577045027030, IMEI 2:860577045027022 (không kiểm tra chất lượng bên trong) là điện thoại do bị cáo sử dụng giao dịch mua bán 04 viên thuốc lắc và 02 điếu cần sa cho Huy ngày 30/01/2021. Trả lại cho bị cáo 01 ví da màu đen; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh Văn H; số tiền 1.410.000 đồng là tiền của bị cáo không liên quan đến việc mua bán ma túy, nH tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Airblade BKS: 15B2-616.94 thuộc sở hữu của ông Bùi Đức Kiên là bố vợ của Trịnh Văn H, ngày 05/02/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Bùi Đức Kiên, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[8] Bị cáo Trịnh Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[9] Bị cáo Trịnh Văn H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

- Trong vụ án này:

[10] Các đối tượng Huy là người hỏi mua ma túy của Trịnh Văn H, Tài là người bán ma túy và người bán giấy cuộn ma túy cần sa cho Trịnh Văn H, quá trình điều tra không xác minh được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[11] Đối với Nguyễn Hải Nm là người đi cùng Trịnh Văn H, do không biết việc Trịnh Văn H mang ma túy đi bán cho khách nên không có căn cứ xử lý.

[12] Đối với việc Trịnh Văn H khai nhận trước khi bị bắt, Trịnh Văn H đã bán ma túy 01 lần vào ngày 30/01/2021, ngoài lời khai của Trịnh Văn H không có chứng cứ khác chứng minh nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trịnh Văn H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/01/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Phạm Văn Bình, Trịnh Văn H, Đào Trọng Kiên, Nguyễn Hải Nm; 01 phong bì dán kín còn nguyên niêm phong, trên bề mặt có dấu niêm phong số 164MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, có chữ ký của Đỗ Thị Hoa; 01 lọ nhựa màu trắng hình trụ tròn cao khoảng 08cm, đường kính khoảng 05cm; 01 lọ nhựa hình trụ tròn cao khoảng 10cm, đường kính khoảng 07cm; 01 cân điện tử màu trắng hình vuông kích thước khoảng 15 x 15cm; 22 vỏ túi nilon màu trắng có cùng kích thước khoảng 07 x 14 cm; 08 vỏ túi nilon màu trắng cùng kích thước khoảng 03 x 04cm; 01 hộp giấy màu đỏ hình chữ nhật kích thước khoảng 05 x 10 x 20cm; 06 gói giấy có nhãn hiệu Rollies, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng có thông tin số IMEI 1: 860577045027030, IMEI 2:860577045027022 (không kiểm tra chất lượng bên trong).

- Trả lại cho bị cáo Trịnh Văn H 01 ví da màu đen; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh Văn H; số tiền 1.410.000 (một triệu bốn trăm mười nghìn) đồng, nH tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố H).

Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trịnh Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Trịnh Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về