Bản án 61/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST- HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Lê Phúc L, sinh năm 2000 tại tỉnh Bình Dương. Nơi cư trú: Ấp VA, xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bá H và bà Nguyễn Thị Ngọc G; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 02/11/2019, Nguyễn Lê Phúc L bị Chủ tịch UBND xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ra Quyết định số 934/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với thời gian 06 tháng (đã chấp hành xong).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2021 cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị Thùy M, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Ấp 6, xã AL, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2/ Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 2002; Nơi cư trú: Ấp 6, xã AL, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

3/ Bà Phạm Thị B, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Ấp 6, xã AL, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

4/ Bà Lê Thị T, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Khu phố 9, thị trấn P, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

5/ Ông Bùi Thanh L1, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Khu phố 9, thị trấn P, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

6/ Bà Nguyễn Thị Ngọc G, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Ấp VA, xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 06/02/2021, Công an xã VH, huyện Phú Giáo nhận được tin báo có một nhóm đối tượng tụ tập tại nhà bà Nguyễn Thị Ngọc G (nhà bà G bỏ hoang không có người ở) có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy nên tiến hành kiểm tra, khi Công an xã VH đến phát hiện có 05 đối tượng nam nữ đang tụ tập, thấy Công an nên 04 đối tượng đã bỏ chạy, còn đối tượng Nguyễn Thị Thùy M ở lại trong nhà.

Qua kiểm tra phát hiện thu giữ tang vật gồm: 01 đoạn ống hút màu vàng bên trong có chứa chất rắn (nghi là ma túy) có khối lượng 0,3257gam; 01 chai nhựa bên trong có nước lọc gắn ống hút ở nắp chai dùng để sử dụng ma túy đá; 01 xe mô tô biển số 61F1-106.06 và 01 xe mô tô biển số 52U5-2479.

Quá trình làm việc với Nguyễn Thị Thùy M và Nguyễn Ngọc C khai nhận khoảng 20 giờ ngày 06/02/2021, M cùng bạn tên thường gọi là S (không rõ nhân thân lai lịch) đến nhà Nguyễn Lê Phúc L (là con bà G) chơi, khi đến thì thấy có L cùng một người bạn tên C1 (không rõ nhân thân lai lịch). Trong lúc ngồi chơi M hỏi L có ma túy không lấy ra sử dụng thì L đồng ý. Lúc này Nguyễn Ngọc C cũng đến chơi, M rủ C cùng sử dụng ma túy thì C đồng ý, L lấy trong túi quần ra 01 đoạn ống hút hàn kín bên trong có chứa ma túy đá và bộ dụng cụ sử dụng ma túy để dưới sàn nhà, khi các đối tượng chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra nên L, S, C1 và C bỏ chạy.

- Kết luận giám định số: 85/MT-PC09 ngày 10/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, gửi giám định là ma túy, có khối lượng/khối lượng: 0,3257 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật ma túy sau giám định có khối lượng 0,2505 gam được niêm phong có dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, 01 chai nước ngọt có gắn ống hút ở nắp chai dùng để sử dụng ma túy đá.

- 02 xe mô tô biển số 61F1-106.06 và biển số 52U5-2479 do Nguyễn Thị Thùy M và Nguyễn Ngọc C dùng để đi đến nhà của L. Qua điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Phạm Thị B (là mẹ của M và C) đứng tên chủ sở hữu, M và C mượn xe của bà B để đi chơi ngày 06/02/2021.

Quá trình Nguyễn Lê Phúc L bỏ trốn, L tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cụ thể: Khoảng 20 giờ ngày 01/7/2021, L cùng bạn tên Bùi Thanh L1 đến quán cà phê 9999 thuộc khu phố 2, thị trấn P, huyện Phú Giáo để uống nước. Tại đây, L mượn xe mô tô biển số 61F1-120.40 của L1 để đi công chuyện (mục đích là L đi mua ma túy để sử dụng nhưng L1 không biết). L điều khiển xe mô tô đến khu vực cây xăng Ngọc M ở xã AB, huyện Phú Giáo gặp đối tượng tên H1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) và mua của H1 01 bịch ma túy bỏ trong bịch nylon hàn kín với giá 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy, L bỏ vào túi quần đang mặc rồi quay về quán cà phê chở L1 đi đến đường ĐH 506 thuộc ấp VA, xã VH, huyện Phú Giáo thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang.

Tang vật thu giữ: 01 bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) có khối lượng 0,0776 gam.

- Kết luận giám định số: 419/MT-PC09 ngày 09/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0776 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật đã được sử dụng hết cho công tác giám định.

- Đối với xe mô tô biển số 61F1-120.40, qua điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Lê Thị T (mẹ của L1). Ngày 01/7/2021, L1 mượn bà T chiếc xe trên để đi chơi, khi L mượn xe thì L1 không biết L dùng chiếc xe để đi mua ma túy.

- Quá trình làm việc với Nguyễn Lê Phúc L, L khai nhận khoảng 20 giờ ngày 06/02/2021, M, S, C1 và C (không rõ nhân thân, lai lịch) đến nhà L chơi, tại đây M hỏi L có biết chỗ nào bán ma túy đá không thì 05 người góp tiền đưa cho L đi mua về cùng nhau sử dụng thì L đồng ý, sau đó 05 đối tượng trên mỗi người góp số tiền 100.000 đồng, L cầm 500.000 đồng đi đến khu vực xã Hưng Hòa, huyện Bàu Bàng gặp đối tượng tên T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) mua của T1 01 đoạn ống hút hàn kín bên trong chứa ma túy đá với giá 500.000 đồng. Khi L đưa ma túy về để trên sàn nhà chuẩn bị cùng nhau sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra nên đã bỏ chạy. Tuy nhiên, quá trình điều tra M và C đều không thừa nhận hành vi góp tiền để mua ma túy theo lời khai của L nên chưa có cơ sở để xử lý hình sự đối với M và C, sẽ tiếp tục điều tra, nếu có căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 75/CT-VKSPG, ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Nguyễn Lê Phúc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê Phúc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Phúc L từ 01 (một) năm 6 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Xe mô tô biển số 61F1-120.40, qua điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Lê Thị T (mẹ của L1). Ngày 01/7/2021, L1 mượn bà T chiếc xe trên để đi chơi, khi L mượn xe thì L1 không biết L dùng chiếc xe để đi mua ma túy. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của bà T nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo đã trả lại cho bà T.

- 02 xe mô tô biển số 61F1-106.06 và biển số 52U5-2479 do Nguyễn Thị Thùy M và Nguyễn Ngọc C dùng để đi đến nhà của L. Qua điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Phạm Thị B (là mẹ của M và C) đứng tên chủ sở hữu, M và C mượn xe của bà B để đi chơi ngày 06/02/2021. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của bà B nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo đã trả lại cho bà B.

- Mẫu vật ma túy sau giám định có khối lượng 0,2505 gam được niêm phong có dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, 01 chai nước ngọt có gắn ống hút ở nắp chai dùng để sử dụng ma túy đá. Xét thấy đây là vật cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lê Phúc L thừa nhận ngày 06/02/2021 và ngày 01/7/2021, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo thống nhất với kết luận của cơ quan giám định về loại ma túy, khối lượng chất ma túy; với tội danh, mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị và không có ý kiến khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Lê Phúc L: Bị cáo đã vi phạm pháp luật, ăn năn, hối cải về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lê Phúc L khai nhận: Ngày 06/02/2021 và ngày 01/7/2021, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,4033 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các Bản kết luận giám định số: 85/MT-PC09 ngày 10/02/2021 và 419/MT-PC09 ngày 09/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo nhằm mục đích để sử dụng, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Nguyễn Lê Phúc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[5] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây tổn hại đến sức khỏe của bản thân bị cáo mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác. Xét động cơ, mục đích phạm tội vì thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, hậu quả gây ra cho xã hội mà thực hiện hành vi phạm tội. Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, sau khi chấp hành xong bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục vi phạm. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, hình phạt, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

[8] Quá trình làm việc với Nguyễn Lê Phúc L, L khai nhận khoảng 20 giờ ngày 06/02/2021, M, S, C1 và C (không rõ nhân thân, lai lịch) đến nhà L chơi, tại đây M hỏi L có biết chỗ nào bán ma túy đá không thì 05 người góp tiền đưa cho L đi mua về cùng nhau sử dụng thì L đồng ý, sau đó 05 đối tượng trên mỗi người góp số tiền 100.000 đồng, L cầm 500.000 đồng đi đến khu vực xã Hưng Hòa, huyện Bàu Bàng gặp đối tượng tên T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) mua của T1 01 đoạn ống hút hàn kín bên trong chứa ma túy đá với giá 500.000 đồng. Khi L đưa ma túy về để trên sàn nhà chuẩn bị cùng nhau sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra nên đã bỏ chạy. Tuy nhiên, quá trình điều tra M và C đều không thừa nhận hành vi góp tiền để mua ma túy theo lời khai của L nên chưa có cơ sở để xử lý hình sự đối với M và C, sẽ tiếp tục điều tra, nếu có căn cứ sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

- Đối với đối tượng tên S và C1 (người cùng góp tiền để mua ma túy ngày 06/02/2021 theo lời khai của L), hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, đề xuất xử lý sau.

- Đối với đối tượng tên T1 (là người bán ma túy cho L ngày 06/02/2021) và đối tượng tên H1 (là người bán ma túy cho L ngày 01/7/2021), hiện chưa rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, đề xuất xử lý sau.

- Đối với Bùi Thanh L1, ngày 01/7/2021 L1 cho Nguyễn Lê Phúc L mượn xe mô tô nhưng L1 không biết L dùng chiếc xe trên để đi mua ma túy nên không có căn cứ xử lý đối với L1.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Xe mô tô biển số 61F1-120.40, qua điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Lê Thị T (mẹ của L1). Ngày 01/7/2021 L1 mượn bà T chiếc xe trên để đi chơi, khi L mượn xe thì L1 không biết L dùng chiếc xe để đi mua ma túy. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của bà T nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo đã trả lại cho bà T là phù hợp.

- 02 xe mô tô biển số 61F1-106.06 và biển số 52U5-2479 do Nguyễn Thị Thùy M và Nguyễn Ngọc C dùng để đi đến nhà của L. Qua điều tra xác định chiếc xe trên là của bà Phạm Thị B (là mẹ của M và C) đứng tên chủ sở hữu, M và C mượn xe của bà B để đi chơi ngày 06/02/2021. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của bà B nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo đã trả lại cho bà B là phù hợp.

- Mẫu vật ma túy sau giám định có khối lượng 0,2505 gam được niêm phong có dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, 01 chai nước ngọt có gắn ống hút ở nắp chai dùng để sử dụng ma túy đá. Xét thấy, đây là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê Phúc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Phúc L 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 01/7/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong ký hiệu 85/PC09 sau giám định có khối lượng 0,2505 gam được niêm phong có dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, có chữ ký của Nguyễn Thị Thùy M, Hà Quang H2; 01 (một) chai nước ngọt có gắn ống hút ở nắp chai.

Các vật chứng trên được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/9/2021.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Lê Phúc L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về