Bản án 61/2021/HSST ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 61/2021/HSST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 10 tháng 3 năm 2020 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2021/HSST ngày 08 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 02 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 10/5/1989.

ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Gò Ch, xã CN, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1961, con bà Bàng Thị H1, sinh năm 1968; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con hai. Có vợ Trương Thị H2, sinh năm 1990, có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến nay.(Có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1961.

Địa chỉ: Xóm Gò Ch, xã CN, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Ông Trần Văn M, sinh năm 1969 Địa chỉ: Tổ 8, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tổ công tác của Công an phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 8 của phường thì phát hiện 01 nam thanh niên đi xe mô tô BKS 20B1- 603.04 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đã yêu cầu đứng lại kiểm tra. Quá trình kiểm tra, nam thanh niên trên tự khai tên Nguyễn Văn Đ, đồng thời tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói ni lon màu trắng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu trắng và 01 gói giấy bạc màu vàng đều chứa chất bột màu trắng. Đ khai là Heroine của Đ mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn Đ, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 xe mô tô BKS 20B1-603.04.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân, xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Đ có khối lượng là 0,186 gam (niêm phong ký hiệu Đ1 gửi giám định).

Tại bản kết luận giám định 42/KL –KTHS ngày 25/12/2020 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ được của Đ ngày 16/12/2020, gửi đến giám định là chất ma túy loại Heroine, có khối lượng là 0,186gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 16/12/2020, Đ điều khiển xe mô tô BKS 20B1-603.04 đến khu vực phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên với mục đích tìm mua ma túy Heroine về sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi Đ gặp 01 người đàn ông không quen biết, qua giao dich Đ mua của người đàn ông đó 02 gói Heroine, trong đó 01 gói bằng giấy bạc màu vàng và 01 gói bằng giấy bạc màu trắng để trong túi nilon màu trắng với giá với giá 300.000đ. Mua xong, Đ cất giấu 02 gói Heroine vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi về. Khi đi đến khu vực tổ 8, phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác của Công an phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Nguyễn Văn Đ phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1 bên trong chứa chất ma túy. Hiện đang được lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

- 01 xe mô tô BKS 20B1-603. 04, quá trình điều tra xác định chiếc xe là của ông Nguyễn Văn Hợp, sinh năm 1961, trú tại xóm Gò Chè, xã Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên (ông Hợp là bố đẻ của Đ) ông Hợp không biết Đ sử dụng xe của mình để đi mua Heroine nên cơ quan cảnh sát Điều tra công an thành phố Thái Nguyên đã trả chiếc xe cho ông Hợp quản lý sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKSTPTN ngày 08 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Hợp khai nhận: Ông không biết Đ mượn xe của mình để đi mua ma túy, vì khi cho Đ mượn xe, Đ không nói cho ông biết mượn xe để làm gì, ông cũng không hỏi Đ đi đâu. Nay ông đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì khác đối với Đ.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14; Đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Xét nhân thân và điều kiện kinh tế của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong số ký hiệu Đ1 bên trong chứa chất ma túy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến cũng không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Do vậy, Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 9 giờ 30 phút ngày 16/12/2020, tại khu vực tổ 8, phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Văn Đ đang có hành vi tàng trữ 0,186 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân với khối lượng ma túy Heroine là 0,186 gam. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

…….

c, Heroin …có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam .

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi. Do vậy, hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa từng có tiền án, tiền sự, nhưng là người có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy mà vẫn phạm tội điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật kém. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cho bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để bị cáo biết tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người lương thiện. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1, bên trong chứa chất ma túy.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn Đ 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[8] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ Nguyễn Văn Đ khai đã mua của 01 nam thanh niên không quen biết, không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực phường Tân Long. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn Đ 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1 bên trong có chứa 0,168 gam ma túy Heroine và vỏ bao gói mẫu ban đầu do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy và 03 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên. (Biên bản giao nhận vật chứng số 232 ngày 03/3/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an thành phố Thái Nguyên)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2021/HSST ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về