Bản án 61/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 06 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T; sinh ngày 06 tháng 10 năm 1960 tại tỉnh Vĩnh P, Nơi đăng ký thường trú Thôn Hoa P, xã Bình D, huyện Vĩnh T, tỉnh Vĩnh P, chỗ ở hiện nay: Ngõ 9, đường Bến B, phường Tam T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 02/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); vợ: Ngô Thị C, sinh năm 1964; Nghề nghiệp; Con: Có 02 con, lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 1990; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân:chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18-3-2021 đến nay; có mặt;

- Bị hại: Ông Vũ Đình H, sinh năm 1954, trú tại: Số 01 đường Lê L, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Hồi 15 giờ 10 phút ngày 18-3-2021, qua công tác kiểm tra tạm trú tại khu vực ngõ 9 đường Bến Bắc, phường Tam T, thành phố Lạng S, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn phát hiện tại phòng trọ cuối của dãy nhà trọ tại ngõ 9 đường Bến B, phường Tam Tdo chị Trần Khánh Linh, sinh năm 1982, trú tại: Số 07 đường Bến B, phường Tam T, thành phố Lạng Squản lý có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream màu nâu, treo biển kiểm soát 12F2 – 3246 để trong phòng trọ, thấy chiếc xe mô tô trên có đặc điểm và biển kiểm soát phù hợp với nội dung đơn trình báo của ông Vũ Đình H, sinh năm 1954, trú tại: Số 01 đường Lê L, phường Vĩnh T, thành phố Lạng Strình báo về việc ngày 17-3-2021, ông Vũ Đình H bị mất trộm 01 chiếc xe mô tô dựng tại khu vực trước cửa nhà tại số 01 đường Lê L, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S. Tổ công tác lập biên bản sự việc và điều tra xác minh làm rõ:

Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 17-3-2021, Nguyễn Văn T một mình đi bộ tập thể dục từ phòng trọ tại ngõ 9 đường Bến B, phường Tam T, thành phố Lạng Sđi ra hướng đường Lê L, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S. Khi đi qua nhà số 01 đường Lê L, phường Vĩnh T, thành phố Lạng S, Nguyễn Văn T nhìn thấy trước cửa nhà có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream màu nâu, treo biển kiểm soát 12F2 – 3246 dựng trên vỉa hè, xung quanh không có ai trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô để dùng làm phương tiện đi lại. Nguyễn Văn T kiểm tra thấy xe không khóa cổ nên đã một mình dắt bộ chiếc xe mô tô này về cất giấu tại khu vực phòng trọ, mục đích để sử dụng.

Kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 34/ĐGTSTT ngày 19-3-2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream đã qua sử dụng trị giá 2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 07 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T ra trước Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Bị hại anh Vũ Đình H vắng mặt nhưng trong bản khai và đơn xin vắng mặt anh có ý kiến: Anh đã được nhận lại xe mô tô và giấy tờ xe, không có yêu cầu về vấn đề dân sự đối với bị cáo, anh xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

Tại phiên toà:

Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản như nội dung cáo trạng đã truy tố;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 06 tháng đến 08 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng.

Bị hại anh Vũ Đình H đã nhận lại xe, không có yêu cầu về dân sự đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

Vật chứng: Xác nhận cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả lại chiệc xe mô tô mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream màu nâu, treo biển kiểm soát 12F2 – 3246 cho chủ sở hữu là anh Vũ Đình H; trả lại bị cáo Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 353693052793341 đã qua sử dụng, nứt vỡ; 01 căn cước công dân số 02606001587 tên Nguyễn Văn T cấp ngày 09-10-2017; 01 mũ lưỡi trai màu đen;

01 áo sơ mi dài tay màu nâu; 01 giày thể thao nhãn hiệu Asia màu trắng;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn T không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Văn T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tòa án đã triệu tập bị hại anh Vũ Đình H, tại phiên tòa hôm nay vắng mặt anh Vũ Đình H, trong hồ sơ đã có lời khai của anh Vũ Đình H và đơn xin vắng mặt của anh Vũ Đình H. Do vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Vũ Đình H theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với kết luận định giá và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 17-3-2021, Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream màu nâu, treo biển kiểm soát 12F2 – 3246 trị giá 2.700.000 đồng. Tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, bị cáo đủ năng lực hành vi chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội trộm cắp tài sản là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do vậy, có đủ cơ sở để kết tội bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an trong khu vực. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung. Để cá thể hóa hình phạt, có mức án thỏa đáng đối với bị cáo cần phải xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: bị cáo không bị xử phạt vi phạm hành chính, không bị xử lý kỷ luật, nhân thân tốt, tiền án, tiền sự không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, xe máy đã được thu hồi trả cho bị hại nên thiệt hại không lớn, bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo học hết lớp 2/12 nên trình độ học vấn, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo tốt trở thành người có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Nguyễn Văn T thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo (Biên bản xác minh ngày 31-3-2021).

8 Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream biển kiểm soát 12F2 – 3246 cho bị hại ông Vũ Đình H. Ông Vũ Đình H không có yêu cầu, đề nghị bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

9 Về vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 353693052793341 đã qua sử dụng, nứt vỡ; 01 căn cước công dân số 02606001587 tên Nguyễn Văn T cấp ngày 09-10-2017; 01 mũ lưỡi trai màu đen; 01 áo sơ mi dài tay màu nâu; 01 giày thể thao nhãn hiệu Asia màu trắng, đây là các tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn T bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về mức hình phạt và các vấn đề khác của vụ án là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Căn cứ khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Căn cứ vào Điều 292, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 18-3-2021.

3. Về vật chứng: Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 353693052793341 đã qua sử dụng, nứt vỡ; 01 căn cước công dân số 02606001587 tên Nguyễn Văn T cấp ngày 09-10-2017; 01 mũ lưỡi trai màu đen; 01 áo sơ mi dài tay màu nâu; 01 giày thể thao nhãn hiệu Asia màu trắng.

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2021/HS-ST ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về