Bản án 61/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2019/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2019/HSST-QĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Cao Xuân C. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 05.10.1998, tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Nơi đăng ký hộ khẩu thường và nơi ở: Bản Q, xã C, huyên Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 12/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Cao Xuân B, sinh năm 1963 và bà: Nguyễn Thị L, sinh năm: 1962. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Lường Văn H, sinh năm 1997. Nghề nghiệp: Nhân viên Công ty TNHH NIN A. Hộ khẩu thường trú: Bản T, xã P, huyện C, tỉnh Sơn La. Nơi ở: bản D, xã N, TP Sơn La, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1997. Hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã V, huyện M, thành phố Hà Nội. Nơi ở: Khối T2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05.12.2018, Cao Xuân C mượn điện thoại Iphone 6 32GB của Đinh Thị Huyền T, là bạn của C để cài đặt phần mềm mua sắm trực tuyến Tiki. C tìm thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB trị giá 29.990.000VNĐ, nhưng do không có đủ tiền mua nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại di động từ người giao hàng và lên kế hoạch thực hiện việc này. C đã đăng ký tài khoản giả trên ứng dụng Tiki lấy tên người mua là Nguyễn Văn Hiếu, địa chỉ giao hàng tại tiểu khu 32, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, số điện thoại 0398 145 452 để đặt mua 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB màu vàng giá 29.990.000VNĐ, lựa chọn hình thức thanh toán khi nhận hàng. Đến ngày 09.12.2018, Lường Văn H, là nhân viên giao hàng của Công ty TNHH NIN A liên lạc với C qua số điện thoại 0398 145 452, hẹn địa điểm giao điện thoại tại khu vực cổng trường Tiểu học 19-5, xã C, huyện Mai Sơn. Khoảng 14 giờ cùng ngày, H đến cổng trường Tiểu học 19-5 và gọi điện thoại cho C, lúc này C đang ở quán cắt tóc của mình tại Tiểu khu A, xã C, huyện Mai Sơn, C mượn chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ (C không nhớ biển kiểm soát) của khách hàng đang làm tóc, đội mũ bảo hiểm loại có cằm mục đích để H không nhìn thấy mặt mình, rồi đi đến chỗ H. Khi đến nơi, H giao cho C 01 hộp bìa các-tông. C bóc lớp vỏ hộp, lấy chiếc điện thoại ra và khởi động, kiểm tra. Sau đó, C bảo H đi theo C về nhà để lấy tiền thanh toán, đồng thời cho điện thoại kèm hộp đựng vào túi ni-lon treo ở giá để hàng xe bên phải, vứt vỏ hộp bìa các-tông xuống đất và điều khiển xe máy đi. H nhặt vỏ hộp bìa các-tông lên để ở giỏ đựng hàng phía trước xe, rồi điều khiển xe đi theo cách khoảng 5m theo đường Quốc lộ 6A hướng về thành phố Sơn La. Khi đi được khoảng 100m thì C rẽ vào đường đất bên phải hướng đi vào Tiểu khu 32, vận tốc khoảng 20km/h, đến khu vực Nhà văn hóa Tiểu khu 32 thì C rẽ phải đi theo đường bê tông giáp nhà văn hóa Tiểu khu 32. Đi được khoảng 80m thì C tăng ga đột ngột đi đến đường Quốc lộ 6A, rồi đi theo hướng đến xã C. H đuổi theo C đến khu vực Cống 39 xã C, huyện Mai Sơn thì không thấy C nữa, nên quay lại chi nhánh tiếp tục làm việc. Còn C về đến nhà liền tháo sim điện thoại số 0398 145 452 vứt vào thùng rác gần nhà.

Đến ngày 16.12.2018, C nhắn tin cho Nguyễn Văn H (sinh năm 1997, trú tại Khối T2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên) qua Facebook hỏi bán chiếc điện thoại đã chiếm đoạt được, H2 đồng ý và yêu cầu C cho kiểm tra điện thoại. Ngày 20.12.2018, C gửi qua xe khách tuyến Hà Nội-Sơn La chiếc điện thoại cho H2, H2 kiểm tra điện thoại rồi nhất trí mua với giá 24.000.000VNĐ. Đến ngày 24.12.2018, H2 chuyển 24.000.000VNĐ vào số tài khoản 0871007717029 của C tại ngân hàng ABBANK. Sau khi nhận được tiền C đã rút 15.000.000VNĐ và tiêu xài cá nhân hết 1.000.000VNĐ, C để tại quán cắt tóc của C 14.000.000VNĐ, số tiền 9.000.000VNĐ còn lại C vẫn để trong tài khoản ngân hàng.

Ngày 27.12.2018, Lường Văn H làm đơn trình báo Công an huyện Mai Sơn đề nghị điều tra xác minh làm rõ. Qua điều tra xác minh, ngày 27.12.2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn đã triệu tập Cao Xuân C đến làm việc. Tại Cơ quan CSĐT C đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản của bản thân.

Vật chứng thu giữ: 01 vỏ hộp các-tông đựng điện thoại ban đầu; Số tiền 24.000.000 VNĐ do Cao Xuân C giao nộp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 (kèm theo sim) đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX đã qua sử dụng, 01 sạc điện thoại Iphone đã qua sử dụng, 01 tai nghe điện thoại Iphone, 01 vỏ hộp đựng điện thoại IPHONE XS MAX do Nguyễn Văn H giao nộp ; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu INDEX đã qua sử dụng, 01 áo khoác màu nâu xám đã qua sử dụng, 01 quần dài màu đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng.

Ngày 23.04.2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn trưng cầu Hội đồng định giá tài sản huyện Mai Sơn định giá đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB màu vàng kèm theo 01 sạc pin, 01 tai nghe điện thoại, còn mới. Ngày 23.04.2019, Hội đồng định giá tài sản huyện Mai Sơn ra bản kết luận định giá tài sản số 362/KL-HĐĐG kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB màu vàng kèm theo 01 sạc pin, 01 tai nghe điện thoại còn giá trị là 29.990.000 VNĐ.

Tại phiên toà bị cáo Cao Xuân C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh Lường Văn H trình bày: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 09/12/2018, tại kho hàng của Công ty TNHH NIN A (nơi anh đang làm việc), anh nhận một đơn hàng là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB màu vàng kèm theo 01 sạc pin, 01 tai nghe điện thoại, trị giá 29.990.000VNĐ đã được niêm trong trong hộp, bên ngoại ghi người nhận Nguyễn Văn Hiếu, trú tại Tiểu khu 32, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, số điện thoại 0398143152. Anh có trách nhiệm giao hàng cho người nhận và nhận tiền hàng. Trước khi giao hàng, anh gọi điện cho người nhận qua số điện thoại 0398143152, người nhận hẹn gặp tại cổng trường Tiểu học 19/5, xã C. Sau khi đợi ở Cổng trường Tiểu học 19/5 khoảng 08 phút, có người thanh niên đi xe máy, đội mũ bảo hiểm loại có cằm đến nhận là Hiếu, kiểm tra hàng và kích hoạt. Sau đó, nói đi về nhà để tiếp tục cài đặt và lấy tiền thanh toán. Người thanh niên đó cầm điện thoại cho vào túi nilon treo ở xe và điều khiển xe máy đi trước hướng Sơn La, anh theo sau khoảng 05m. Sau khi đi được 01 đoạn, người thanh niên rẽ vào đường Tiểu khu 32 rồi bất ngờ tăng tốc, tôi đuổi theo đến cống 39 thuộc Tiểu khu 32 thì không thấy dấu vết người thanh niên đó. Vì vậy anh đã báo công an. Hiện tại, anh đã được Công an trả lại chiếc điện thoại bị chiếm đoạt và đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền hàng 29.990.000VNĐ cho Công ty TNHH NIN A. Tại phiên tòa, anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, về hình phạt để nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 22.7.2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Cao Xuân C về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày bản luận tội đối với bị cáo và đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Xuân C phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Cao Xuân C từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận gia đình bị cáo và người bị hại Lò Văn H đã thỏa thuận bồi thường số tiền 1.500.000VNĐ và chấp nhận người có quyền lợi liên quan Nguyễn Văn H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về phần dân sự.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Chấp nhận việc cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn đã trả lại số tiền 24.000.000VNĐ cho Nguyễn Văn H; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB cùng hộp đựng điện thoại và phụ kiện kèm theo cho Lường Văn H.

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ carton màu xám kích thước 22 x 16 x 11cm đã được bóc vỏ, trong hộp không có gì; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Index, màu đỏ - xám, loại mũ trùm đầu có cằm, đã qua sử dụng cũ; 01 áo khoác màu nâu – xám, đã qua sử dụng cũ; 01 quần dài, loại quần bỉ, màu đen, đã qua sử dụng cũ.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng gold 32G, kèm theo sim, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen không kèm theo sim đã qua sử dụng.

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Bị cáo Cao Xuân C tự bào chữa: Nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại: Nhất trí với ý kiến tranh luận, không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về xác định tư cách tham tố tụng tại phiên tòa: Lường Văn H là nhân viên giao hàng của Công ty TNHH NIN A theo hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng ngày 01.09.2018 đã ký kết giữa hai bên, nhiệm vụ của H là giao các đơn hàng cho khách hàng tại huyện Mai Sơn theo sự phân công của Công ty được quy định trong điều khoản của hợp đồng. Trong quá trình giao hàng H trực tiếp bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, xác định Lường Văn H là người bị hại là phù hợp quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với Công ty TNHH MTV Thương mại Ti Ki là đơn vị bán hàng, đây là công ty đã thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyển phát nhanh với Công ty TNHH NIN A là đơn vị giao hàng, sau khi Lường Văn H bị chiếm đoạt tài sản là đơn hàng của Công ty Ti Ki trị giá 29.000.000VNĐ, H đã lấy tiền của mình để trả đủ cho Công ty Ti Ki đúng với giá trị đơn hàng, nay hai đơn vị này đều không có yêu cầu gì. Do đó không đưa Công ty TNHH NIN A và Công ty TNHH MTV Thương mại Ti Ki vào tham gia tố tụng tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về sự vắng mặt người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn H: Tòa án đã triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa, tuy nhiên người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án theo quy định tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự. Xét thấy việc vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, Căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử theo quy định.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt:

Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Cao Xuân C khai nhận: Để có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã nảy sinh ý định đặt mua điện thoại qua mạng rồi lợi dụng sơ hở của người giao hàng để chiếm đoạt tài sản. Thực hiện kế hoạch, C đã đặt mua 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB màu vàng trên ứng dụng mua hàng trực tuyến Tiki. Ngày 09.12.2018, khi Lường Văn H là nhân viên giao hàng của Công ty TNHH NIN A đến giao hàng, C nhận điện thoại và nói dối H đi theo C về nhà để trả tiền. Trên đường đi C điều khiển xe máy qua nhiều ngõ ngách rồi đột ngột tăng tốc khiến H không đuổi theo được để chiếm đoạt chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB mà C đã đặt mua trị giá 29.990.000VNĐ.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và những người có liên quan; biên bản khám nghiệm hiện trường; bản ảnh điện thoại di động; các biên bản trong hoạt động điều tra và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn và không phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.

Như vậy, việc bị cáo Cao Xuân C đã có hành vi gian dối và lợi dụng sơ hở của người giao hàng nhằm chiếm đoạt tài sản đã có đầy đủ căn cứ kết luận bị cáo Cao Xuân C đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng số: 57/CT-VKSMS ngày 22.7.2019 là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, có sự chuẩn bị trước nhằm thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người bị hại, đã trực tiếp xâm hại đến quyền về tài sản và gián tiếp ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo: Bị cáo Cao Xuân C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt các chính sách phát luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tại địa phương. Bị cáophạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã tự bồi thường cho người bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và ổn định, có khả năng tự cải tạo bản thân nên miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, cho bị cáo được hưởng án treo giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục cũng đủ để răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh của Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xét thấy: Bị cáo đang sinh sống cùng bố mẹ trong 01 ngôi nhà cấp bốn, trong nhà có một số đồ dùng sinh hoạt là tài sản của gia đình, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình tố tụng, gia đình bị cáo và người bị hại anh Lường Văn H đã thỏa thuận bồi thường số tiền 1.500.000VNĐ, tại phiên tòa người bị hại không yêu cầu gì thêm. Xét thấy thỏa thuận này là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Cao Xuân C bồi thường về phần dân sự nên hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 24.000.000VNĐ là tiền H2 mua điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB của Cao Xuân C. Quá trình điều tra, xác định: H2 không biết chiếc điện thoại đã mua của C là do C phạm tội mà có. Mặc khác, H2 đã giao nộp điện thoại di động mua của C và phụ kiện kèm theo cho Cơ quan. Như vậy, việc H2 mua chiếc điện thoại của C là hoàn toàn ngay tình nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn trả lại số tiền 24.000.000VNĐ cho Nguyễn Văn H là có căn cứ, cần chấp nhận.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB cùng hộp đựng điện thoại và phụ kiện kèm theo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, xác định: Sau khi Cao Xuân C chiếm đoạt điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB, H là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH NIN A bằng hình khấu trừ vào lương hàng tháng của H. Hiện tại, H đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường cho công ty. Vì vậy, việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn trả lại điện thoại di động cho H là có căn cứ, cần chấp nhận.

Đối với 01 vỏ carton màu xám kích thước 22 x 16 x 11cm đã được bóc vỏ, trong hộp không có gì; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Index, màu đỏ - xám, loại mũ trùm đầu có cằm, đã qua sử dụng cũ; 01 áo khoác màu nâu - xám, đã qua sử dụng cũ; 01 quần dài, loại quần bỉ, màu đen, đã qua sử dụng cũ. Đây là tài sản liên quan đến việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu v àng gold 32G, kèm theo sim, đã qua sử dụng bị cáo sử dụng để đặt mua chiếc điện thoại trên ứng dụng Tiki nhằm chiếm đoạt tài sản và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen không kèm theo sim đã qua sử dụng bị cáo sử dụng để liên hệ khi nhận hàng. Xét thấy, đây là những tài sản liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước theo quy định.

[8] Các vấn đề khác:

Đối với Đinh Thị Huyền T là người Cao Xuân C khai đã cho C mượn điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 32GB để C tải ứng dụng TIKI, thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qúa trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn đã tiến hành xác minh tại tiểu khu Nà Sản, xã Hát Lót, huyện Mai Sơn và xác minh theo số điện thoại 0965481554 (là số điện thoại C khai của Trang thường liên lạc với C). Kết quả: Không có ai tên Đinh Thị Huyền T không cư trú và có hộ khẩu thường trú tại tiểu khu Nà Sản, xã Hát Lót và không liên lạc được với số điện thoại 0965481554. Vì vậy, không có căn cứ điều tra xác minh mở rộng vụ án.

Đối với chiếc xe máy C sử dụng để đi đến điểm hẹn gặp H và chiếm đoạt tài sản. C khai mượn của khách hàng tại quán cắt tóc của C, C không biết tên, tuổi, địa chỉ, quá trình mượn không có ai biết, chứng kiến. Vì vậy không có căn cứ điều tra xác minh mở rộng vụ án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Cao Xuân C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Xử phạt bị cáo Cao Xuân C 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/8/2019).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện Mai Sơn giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Trường hợp Cao Xuân C thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Chấp nhận việc cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn đã trả lại số tiền 24.000.000VNĐ cho Nguyễn Văn H; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX 64GB cùng hộp đựng điện thoại và phụ kiện kèm theo cho Lường Văn H.

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ carton màu xám kích thước 22 x 16 x 11cm đã được bóc vỏ, trong hộp không có gì; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Index, màu đỏ - xám, loại mũ trùm đầu có cằm, đã qua sử dụng cũ; 01 áo khoác màu nâu – xám, đã qua sử dụng cũ; 01 quần dài, loại quần bỉ, màu đen, đã qua sử dụng cũ.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng gold 32G, kèm theo sim, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen không kèm theo sim đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc thỏa thuận bồi thường giữa gia đình bị cáo và bị hại Lò Văn H số tiền 1.500.000VNĐ và người có quyền lợi liên quan Nguyễn Văn H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về phần trách dân sự.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Cao Xuân C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

887
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về