Bản án 61/2019/HSST ngày 23/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 61/2019/HSST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không - Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1986, tại tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Đội 02, xã H, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S, con bà Nguyễn Thị X; Có vợ là Cà Thị Dương, chưa có con.

Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ tại nhà tạm giữ Công an thành phố Điện Biên Phủ từ ngày 22/6/2019 cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Trần Thành Chung; sinh năm: 1980; Nơi cư trú: Tổ 04, phường Thanh Bình, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, có đơn xin vắng mặt.

2. Chị Trần Thanh Tình; sinh năm: 1985; Nơi cư trú: Tổ 04, phường Thanh Bình, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ, ngày 22/6/2019 Nguyễn Văn C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27H1-8904 đi đến khu vực chợ xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, nhằm mục đích đi tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán kiếm lãi. Đến nơi C gặp một người thanh niên không quen biết và hỏi mua được 25 viên hồng phiến với giá 1.000.000đ tiền VNĐ. Mua được ma túy, trên đường về C đã nhặt 01 mảnh nilon màu đen ở ven đường và xé ra thành 02 mảnh. 01 mảnh gói 09 viên; 01 mảnh gói 16 viên, sau đó C cho cả 02 gói ma túy đó vào túi áo ngực bên trái C đang mặc và điều khiển xe mô tô đi về đến khu vực tổ 07, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên thì C bị Công an thành phố Điện Biên Phủ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng cùng phương tiện.

Ngày 23/6/2019, Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ đã gửi toàn bộ vật chứng thu giữ của bị cáo đến phòng PC09 - Công an tỉnh Điện Biên để giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 696/GĐ-PC09 ngày 29/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- 02 (hai) mẫu viên nén màu hồng ký hiệu M1, M2 gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine. Khối lượng M1: 0,88 gam, M2: 1,54 gam.

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018…” Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Bản cáo trạng số 68/CT-VKSTPĐBP ngày 01/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng tại khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C với mức hình phạt từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,35 gam Methamphetamine, 02 mảnh nilon, 01 đoạn ống tre là vật chứng của vụ án.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn C trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định; Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định; các biên bản ghi lời khai, bản tự khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ để xác định khoảng 9 giờ, ngày 22/6/2019, bị cáo một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27H1-8904 đi đến khu vực chợ xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên mua 25 viên hồng phiến với giá 1.000.000đ tiền VNĐ, với mục đích để sử dụng và bán kiếm lãi. Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 251 quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, bị cáo không bị oan sai.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy với số lượng lớn để sử dụng và bán kiếm lãi của bị cáo là rất nghiêm trọng. Mặc dù bị cáo biết việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật; vì ham chơi, không làm chủ được bản thân nên đã mắc vào tệ nạn xã hội, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo cố ý mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lãi. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả xấu cho chính bản thân và gia đình bị cáo, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo cần phải xử lý nghiêm. Đồng thời để làm bài học răn đe, giáo dục, ngăn ngừa tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo có thời gian cai nghiện được ma túy và trở về hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

[3] Về tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định tố tụng của các cá nhân và cơ quan điều tra, truy tố của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên:

Trong quá trình điều tra, truy tố các cá nhân và cơ quan điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cá nhân và cơ quan điều tra, truy tố của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về vật chứng vụ án:

Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; cần tịch thu tiêu hủy 2,35 gam Methamphetamine, 02 mảnh nilon, 01 đoạn ống tre là vật chứng của vụ án.

[5] Các vấn đề khác: Bị cáo Nguyễn Văn C khai đã mua ma túy của một người thanh niên không quen biết ở khu vực chợ Thanh Luông, xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người đàn ông này.

Đi 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda CLICK biển kiểm soát 27H1- 8904 kèm theo chìa khóa xe; Công an thành phố Điện Biên Phủ tạm giữ của bị cáo vào ngày 22/6/2019. Quá trình điều tra cho thấy xe bị cáo mượn của anh Trần Thành Chung (anh Chung mượn xe của chị Trần Thanh Tình) sau đó anh Chung lại cho bị cáo mượn, anh Chung không biết C sử dụng xe vào việc mua bán trái phép chất ma túy, ngày 13/9/2019 cơ quan C sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã trả lại chiếc xe mô tô cho chủ sở hữu là chị Trần Thanh Tình. Xét thấy việc trả lại tài sản của Cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản gì có giá trị tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 22 tháng 6 năm 2019.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy 2,35 gam Methamphetamine, 02 mảnh nilon, 01 đoạn ống tre là vật chứng của vụ án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên phủ ngày 03/10/2019)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/10/2019); anh Trần Thành Chung và chị Trần Thanh Tình vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định của pháp luật./..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HSST ngày 23/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về