Bản án 61/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội cướp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN KỲ - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 61/2019/HSST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 10 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58 /2019/HSST ngày 19/9/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63 /2019/QĐXXST-HS, ngày 03/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày:

21/9/1992 tại huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm BS, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thổ; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Chức vụ Đảng, Ch quyền, đoàn thể: Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Họ và tên cha: Nguyễn Văn D - Sinh 1968. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị D - Sinh năm 1969. Vợ, con: Chưa.Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An từ ngày 15/7/2019 đến nay. (Có mặt ).

Người tham gia tố tụng khác:

Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn Phú H. Địa chỉ: Khối 5, thị trấn Cầu Giát, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Người được ủy quyền: Anh: Nguyễn Công B. Sinh năm: 1973. Vắng mặt.

Trú tại: Khối Tân Thành, Phường Hòa Hiếu, thị xã T Hòa, tỉnh Nghệ An.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Anh: Trần Văn M. Sinh năm: 1971. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm MT, xã NH, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

2- Anh: Tạ Danh Đ. Sinh năm: 1970. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm MT, xã NH, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

3- Anh: Nguyễn Văn B. Sinh năm: 1974. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

4- Anh: Nguyễn Văn T. Sinh năm: 1976. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm KM, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

Người làm chứng:

1- Anh Vũ Văn T. Sinh năm:1973. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm TM, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

2- Anh : Nguyễn Văn N, Sinh năm: 1988. Vắng mặt. Trú tại: Xóm KM, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

3- Anh: Trần Văn Đ. Sinh năm:1990. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm TM, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

4- Anh: Nguyễn Văn H. Sinh năm: 1987. Vắng mặt. Trú tại: Xóm BS, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

5- Anh: Trương Công Đ. Sinh năm: 1992. Vắng mặt. Trú tại: Xóm NX, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

6- Anh: Trương Công S. Sinh năm: 1993. Vắng mặt. Trú tại: Xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

7- Anh: Nguyễn Văn Ch. Sinh năm: 1992. Vắng mặt. Trú tại: Xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

8- Anh: Nguyễn Văn M. Sinh năm: 1991. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

9- Anh: Cao Xuân L. Sinh năm: 1990. Có mặt.

Trú tại: Xóm NX, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

10- Anh: Bùi Văn H. Sinh năm: 1996. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

11- Anh: Nguyễn Văn Ph. Sinh năm: 1990. Có mặt. Trú tại: Xóm KM, xã GX, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

12- Anh: Bùi Duy T. Sinh năm: 1995. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm MT, xã NH, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

13- Anh: Tạ Danh S. Sinh năm: 1993. Vắng mặt.

Trú tại: Xóm MT, xã NH, huyện Tân Kỳ , tỉnh Nghệ An.

14- Anh: Trần Văn H. Sinh năm: 1994. Vắng mặt. Trú tại: Xóm MT, xã NH, huyện Tân kỳ, tỉnh Nghệ An.

15- Anh: Trương Văn T. Sinh năm: 1994. Vắng mặt. Trú tại: Xóm MT, xã NH, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

16- Chị: Trần Thị Huyền A. Sinh năm: 1979. Vắng mặt. Trú tại: Thôn TA, xã HA, huyện Đức Trọng, tỉnh L Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sau khi đã thống nhất việc cướp quặng thiếc của Công ty TNHH Phú H tại khu vực Khe Hao, thuộc xã Tân Hợp, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Nên vào khoảng 20 giờ 15 phút ngày 31/7/2012, Nguyễn Văn H (1987), trú tại xóm BS, xã GX , huyện Tân Kỳ đang ở nhà thì Trương Công Đ (1992), trú tại xóm NX, xã GX, huyện Tân Kỳ gọi điện nói Nguyễn Văn H đi xe máy đến chở Trương Công S (1993), trú tại xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ và Cao Xuân L (1990), trú tại xóm NX, xã GX, huyện Tân Kỳ. Sau đó Nguyễn Văn H lấy 01 con dao tự chế và 01 con dao rạ phát bỏ vào bì xác rắn thì có Nguyễn Văn Đ (1992), trú tại xóm BS, xã GX, huyện Tân Kỳ đến chơi, nên Nguyễn Văn H rủ Nguyễn Văn Đ cùng đi. Nguyễn Văn H đưa bì xác rắn trong đó có 02 con dao cho Nguyễn Văn Đ giữ và lấy xe máy chở Nguyễn Văn Đ đến nhà Trương Công S, sau đó Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Đ và Trương Công S đến nhà Cao Xuân L thì gặp Trương Công Đ (1992), trú tại xóm NX, xã GX, huyện Tân Kỳ, Nguyễn Văn P (1990), trú tại xóm KM, xã GX, huyện Tân Kỳ, Nguyễn Văn M (1991), trú tại xóm LT, xã GX, huyện Tân Kỳ và một người tên H (Bộ) không rõ lai lịch, địa chỉ. Thấy mọi người đến thì Cao Xuân L vào nhà lấy 01 con dao rạ phát rồi sang nhà hàng xóm mượn thêm 01 con dao rạ phát đưa cho Trương Công S. Lúc này thấy đang còn ít người nên Nguyễn Văn H gọi điện rủ Bùi Văn H (1996) và Nguyễn Văn C (1992), đều trú tại xóm LT, xã Giai Xuân, huyện Tân Kỳ, còn Trương Công S gọi điện rủ Bùi Duy T(1995), Trương Văn T (1994), Trần Văn H (1994), Tạ Danh S (1993) đều trú tại xóm MT, xã NH, huyện Tân Kỳ đến. Khi đã tập trung Đ đủ thì mọi người cùng nhau đi lên xã Tân Hợp, huyện Tân Kỳ. Lúc này Nguyễn Văn H điều khiển xe máy chở Trương Công S và Nguyễn Văn Đ cùng 02 con dao. Khi đến ngã ba xóm Xuân T, xã Giai Xuân, huyện Tân Kỳ thì tất cả mọi người gặp Nguyễn Trung C (1986) và Nguyễn Văn T (1995), đều trú tại xóm KM, xã GX, huyện Tân Kỳ thì Nguyễn Trung C nói mọi người đi lên dốc Vinh. Khi lên đến nửa dốc Vình, thuộc xã Giai Xuân, huyện Tân Kỳ thì mọi người dừng lại nên Nguyễn Trung C nói “Xác định đã làm thì làm cho nên còn không làm thì thôi. Lên đập phá thấy quặng thì lấy, đã làm thì làm rứa”. Nghe Nguyễn Trung C nói xong thì mọi người đồng ý rồi cùng nhau tiếp tục đi lên xã Tân Hợp, huyện Tân Kỳ. Khi cách lán khai thác quặng thiếc của Công ty TNHH Phú H ở khu vực Khe Hao, xã Tân Hợp, huyện Tân Kỳ khoảng 80 mét thì tất cả mọi người dừng lại. Tại đây, Nguyễn Trung C nói Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn Đ ở lại trông xe và cảnh giới người qua lại, còn Bùi Văn H, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn T đi bộ vòng qua lán khai thác quặng để sập cầu giao điện. Khi bị cắt cầu giao điện thì anh Nguyễn Công Bình là người được giao trông coi, bảo quản tài sản tại lán nói với anh Nguyễn Văn T có người cắt cầu dao điện định lấy tài sản. Ngay lúc đó Nguyễn Trung C, Nguyễn Văn H, Trương Công S, Trương Công Đ, Nguyễn Văn M, Cao Xuân L, Hoàng (Bộ), Trần Văn H, Bùi Duy Tân, Trương Văn T, Tạ Danh S dùng gạch, đá ném vào lán. Thấy vậy anh Nguyễn Công Bình hoảng sợ bỏ chạy xuống khe Hao, còn anh Nguyễn Văn T trốn dưới gầm sạp gỗ. Lúc này Trương Công C cầm rạ phát, Nguyễn Văn H cầm dao tự chế, Trương Công S cầm dao rạ phát chém vào bạt che lán và đập phá làm hư hỏng một số tài sản và máy móc trong lán. Quá trình đập phá thấy trong lán có 09 bì quặng thiếc nên Nguyễn Văn C nói mọi người lấy đưa ra ngoài thì Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn H, Trương Văn T, Trương Văn S, Cao Xuân L, Hoàng (Bộ), Bùi Văn H, Bùi Duy Tân và Nguyễn Trung C mỗi người vác 01 bì quặng đưa ra chỗ Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn Đ. Thấy mọi người vác quặng thiếc ra thì Nguyễn Văn Đ đến đỡ và đặt một bì quặng lên xe máy rồi cùng Nguyễn Văn H đi về nhà Nguyễn Trung C cất dấu vào sập gỗ, sau đó mọi người về nhà. Đến ngày 01/8/2012 do sợ bị bắt nên Nguyễn Văn Đ đã bỏ trốn đi khỏi địa phương. Đến ngày 15/7/2019 Nguyễn Văn Đ bị Công an huyện Đức Trọng, tỉnh L Đồng bắt theo Quyết định truy nã.

Tại biên bản định giá tài sản số 08/HĐ-ĐGTS ngày 20/12/2012 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Kỳ kết luận: 09 bì quặng thiếc có tổng trọng lượng sau khi loại bỏ bao bì là 450 kg (Bốn trăm năm mươi kilogam) trị giá 63.000.000 đồng (Sáu mươi ba triệu đồng).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có tại hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 64/CT- VKS- HS ngày 18 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ ra trước Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An để xét xử bị cáo về tội:“Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, Đ diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm d, e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Nguyễn Văn Đ mức án từ 07 năm đến 07 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2019.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, tài sản riêng không có gì lớn, vì vậy miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về án phí: Áp dụng: Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Kỳ, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Tại phiên tòa, bị cáo, cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người làm chứng, của bị hại, phù hợp với biên bản định giá tài sản số 08/HĐ-ĐGTS ngày 20/12/2012 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đầy đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ 15 ngày 31/7/2012 tại lán khai thác quặng thiếc của Công ty TNHH Phú H ở khu vực Khe Hao thuộc xã Tân Hợp, huyện Tân Kỳ, Nguyễn Văn Đ cùng Nguyễn Trung C, Nguyễn Văn H, Trương Công Đ, Trương Công S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn T, Cao Xuân L, Bùi Văn H, Nguyễn Văn P, Bùi Duy Tân, Tạ Danh S, Trần Văn H, Trương Văn T và người có tên Hoàng (Bộ) đã dùng các hung khí nguy hiểm để thực hiện hành vi cướp 09 bì quặng thiếc của Công ty TNHH Phú H, gây tổng thiệt hại 63.000.000 đồng (Sáu mươi ba triệu đồng).

Tại Điều 133 Bộ luật Hình sự quy định:

"1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a)…;

d) Sử dụng phương tiện nguy hiểm;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”.

Như vậy: Hành vi phạm tội trên của Nguyễn Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội "Cướp tài sản ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự an toàn xã hội và làm cho quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được việc dùng dao, đá ném vào lán là những hung khí, phương tiện nguy hiểm để đe dọa người khác, làm cho người khác không thể chống cự được để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản là bị pháp luật trừng trị, nhưng do đua đòi, ăn chơi, không chịu lao động, muốn hưởng lợi trên thành quả lao động của người khác, nên đã tụ tập nhau để thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó chứng tỏ bị cáo là đối tượng xem thường pháp luật. Sau khi phạm bị cáo đã bỏ trốn gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Vì vậy, cần có đường lối xử phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và việc cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là cần thiết để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, cần xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo phần nào, vì bị cáo, không có tình tiết tăng nặng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và Đ diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong vụ án này có nhiều bị cáo tham gia, có sự chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội, nhưng tại thời điểm đó các bị cáo chưa nảy sinh ý định cướp tài sản, khi các bị cáo nảy sinh ý định cướp tài sản là khi lên đến nửa dốc Vình, thuộc xã Giai Xuân, huyện Tân Kỳ thì mọi người dừng lại nên Nguyễn Trung C nói “Xác định đã làm thì làm cho nên còn không làm thì thôi. Lên đập phá thấy quặng thì lấy, đã làm thì làm rứa”. Nghe Nguyễn Trung C nói xong thì mọi người đồng ý rồi cùng nhau tiếp tục đi lên xã Tân Hợp, huyện Tân Kỳ, tuy các bị cáo có sự bàn bạc, phân công nhưng không chặt chẽ, không có tổ chức nên chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn.

Xét về vai trò của bị cáo Nguyễn Văn Đ trong vụ án này, khi được Nguyễn Trung C là người trực tiếp khởi xướng thì Nguyễn Văn Đ đồng ý ngay, Nguyễn Văn Đ đồng phạm với vai trò giúp sức cho các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng khi thực hiện hành vi cũng tỏ rõ sự tích cực.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 133 BLHS năm 1999 quy định: „„Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.‟. Xét thấy, bị cáo làm nghề lao động tự do, bản thân bị cáo không có thu nhập hay tài sản gì lớn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án và trách nhiệm dân sự: Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường dân sự đã được giải quyết tại bản án số 09 ngày 09/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An và tại bản án số 137 ngày 29/8/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Hiện bị hại không có yêu cầu Nguyễn Văn Đ bồi thường gì thêm.

Trong vụ án này, đối với Nguyễn Trung C, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn đi khỏi địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Kỳ đã ra Quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. Đối với Nguyễn Văn H, Trương Công Đ, Trương Công S, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn T, Cao Xuân L, Bùi Văn H, Nguyễn Văn P, Bùi Duy Tân, Tạ Danh S, Trần Văn H, Trương Văn T đã bị TAND huyện Tân Kỳ đưa ra xét xử vào ngày 09/5/2013. Đối với người có tên Hoàng (Bộ), Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội: " Cướp tài sản".

2- Về Điều luật áp dụng:

Áp dụng: Điểm d, e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 07 ( B) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 15/7/2019).

3- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4- Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội cướp tài sản

Số hiệu:61/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Kỳ - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về