Bản án 61/2019/HSST ngày 11/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 61/2019/HSST NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 48/2019/HSST ngày 08/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 29/3/2019 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đối với bị cáo:

Nguyễn Như M, sinh năm: 1992; HKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Như S; con bà: Lê Thị L, gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 066 ngày 27/12/2018 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo có 2 tiền án:

-Bản án số 62/HSST ngày 21/11/2011, TAND huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 20 tháng về tội Trộm cắp tài sản kể từ ngày tuyên án ( đã được xóa).

-Bản án số 43/HSPT ngày 12/9/2017, TAND tỉnh Tuyên Quang xử phạt 05 tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2017, bị án ra trại ngày 06/3/2018.

 Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 26/12/2018. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt).

Bị hại:

1.  Chị Trương Thị N, sinh năm 1992 (xin xét xử vắng mặt)

HKTT: Xóm 2, xã Nga Trung, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.

Hiện trú tại: Times City, số 458 M, phường V, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội

2.  Chị Phạm Hương L, sinh năm 1995 (xin xét xử vắng mặt)

HKTT: Số 3 dãy A tổ 14, phường G, quận Ba Đình, Hà Nội.

Hiện trú tại: Số 77/173/24/7 H, phường Đ, quận Ba Đình, Hà Nội.

3. Chị Trịnh Hải L, sinh năm 1993 (xin xét xử vắng mặt)

HKTT: Phòng XX, gác 1 tập thể V, phường P, quận Ba Đình, Hà Nội.

Hiện trú tại: Số 20/93 phố N, phường P, quận Ba Đình, Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Việt N, sinh năm 1988;

HKTT: Tổ 32, phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/9/2018, chị Trương Thị N- SN: 1992, HKTT: Xóm 2, xã Nga Trung, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa trình báo Công an phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội về việc: ngày 11/9/2018 chị bị một nam thanh niên có địa chỉ Facebook “Anh Nguyennhat” trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu vàng hồng cùng số tiền 20.000.000 đồng tại phòng 203 khách sạn Nhật Minh, địa chỉ số 43 phố Lâm Du, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội.

Ngày 26/12/2018, Nguyễn Như M đến Công an quận Long Biên đầu thú và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội:

Do cần tiền tiêu xài nên Nguyễn Như M nảy sinh ý định lên mạng xã hội Facebook kết bạn, làm quen với các cô gái rồi lợi dụng sơ hở để trộm cắp tài sản. Đầu tháng 9/2018, M sử dụng địa chỉ Facebook “Anh Nguyennhat” nhắn tin làm quen, nói chuyện tình cảm với chị Trương Thị  Nga, có địa chỉ Facebook “Trương Thi Nga” rồi rủ chị Nga đi chơi, chị Nga đồng ý. Khoảng 15h ngày 10/9/2018, M đi xe từ Tuyên Quang về Hà Nội đón chị Nga và đến khoảng 01h00 ngày 11/9/2018 thì về thuê phòng 203 khách sạn Nhật Minh số 43 phố Lâm Du, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội để nghỉ. Khoảng 7h30 phút ngày 12/9/2018 khi chị Nga đi vào nhà vệ sinh thì M ở ngoài lục túi xách lấy được 20.000.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 256 GB màu vàng hồng để trên đầu giường của chị N rồi bỏ đi. Sau đó, M đi sang phố Trường Chinh, Hà Nội bán chiếc điện thoại trên cho một người đàn ông không quen biết được 14.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền có được từ việc trộm cắp tài sản M đã chi tiêu cá nhân hết.

Ngoài hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn quận Long Biên, Nguyễn Như M còn khai nhận cũng với thủ đoạn như trên đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác tại quận Đống Đa, Hà Nội. Cụ thể như sau:

-Vụ thứ nhất: Khoảng 11h30 phút ngày 23/12/2018, M trộm cắp của chị Phạm Hương L, sinh năm: 1995, trú tại: Số 77/173/24/7 phố Hoàng Hoa Thám, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội 01 chiếc điện thoại Iphone X 256Gb màu đen tại phòng 402 khách sạn Seven Hotel, phố Huỳnh Thúc Kháng, quận Đống Đa, Hà Nội. Bị cáo M đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên để phục vụ điều tra.

-Vụ thứ hai: Khoảng 17h ngày 23/12/2018, M trộm cắp của chị Trịnh Hải L, sinh năm: 1993, trú tại: số 20/93 phố Nghĩa Dũng, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 64GB màu vàng hồng tại phòng 802 khách sạn Sài Gòn Sun Hotel, phố Đông Các, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội. Chiếc điện thoại này M đã bán cho anh Nguyễn Việt N, sinh năm: 1988, HKTT: Tổ 32 phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang được 3.000.000 đồng. Anh Nghĩa đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên cho Cơ quan điều tra.

Đối với 02 hành vi trên, người bị hại chưa trình báo cơ quan công an. Cơ quan CSĐT - Công an quận Đống Đa cũng chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Như M. Các cơ quan tố tụng đã thống nhất để Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên khởi tố, điều tra các hành vi trên trong cùng vụ án này.

Lời khai nhận tội của Nguyễn NhưM phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được.

Tại bản kết luận định giá số 16/KL-HĐ ngày 14/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận:

- 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 256GB màu vàng hồng đã qua sử dụng trị giá 15.000.000 đồng ( tài sản của chị Trương Thị N).

  - 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 64GB màu vàng hồng đã qua sử dụng trị giá 15.000.000 đồng ( tài sản của chị Trịnh Hải L).

- 01 chiếc điện thoại Iphone X 256GB màu đen đã qua sử dụng trị giá 16.000.000 đồng ( tài sản của chị Phạm Hương L).

Tổng giá trị tài sản định giá: 46.000.000 đồng (BL 18).

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Như M chiếm đoạt là 66.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự:

- Gia đình bị cáo Nguyễn Như M đã bồi thường cho chị Nga số tiền 10.000.000 đồng. Chị N đã nhận số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về số tài sản còn lại bị mất.

-Cơ quan CSĐT - Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chị Trịnh Hải L 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 64GB màu vàng hồng và cho chị Phạm Hương L 01 chiếc điện thoại Iphone X 256GB màu đen. Chị Linh và chị Lan đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm về dân sự.

- Đối với anh Nguyễn Việt N, quá trình điều tra xác định khi mua chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 64GB màu vàng hồng từ M, anh Nghĩa không biết đó là tài sản do M trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý. Anh Nghĩa không yêu cầu M phải hoàn trả anh số tiền 3.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 58/CT-VKS-LB ngày07/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Nguyễn Như Mvề tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Như M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa như sau: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Như M đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo mức án từ 30 đến 36 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định; Về xử lý vật chứng: Buộc bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 27.000.000 đồng là số tiền do phạm tội mà có, khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; Về trách nhiệm dân sự: Không.

Nói lời sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra;biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu;Kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quancùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 7h30 phút ngày 12/9/2018, tại phòng 203 khách sạn Nhật Minh, địa chỉ số 43 phố Lâm Du, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội, Nguyễn Như M có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 256GB màu vàng hồng trị giá 15.000.000 đồng và số tiền 20.000.000 đồng của chị Trương Thị N.Khoảng 11h30 phút ngày 23/12/2018, tại phòng 402 khách sạn Seven Hotel, phố Huỳnh Thúc Kháng, Đống Đa, Hà Nội, Nguyễn Như M có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone X 256GB màu đen trị giá 16.000.000 đồng của chị Phạm Hương L.Khoảng 17h ngày 23/12/2018, tại phòng 802 khách sạn Sài Gòn Sun Hotel, phố Đông Các, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội, Nguyễn Như M có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 64GB trị giá 15.000.000 đồng của chị Trịnh Hải L.Tổng giá trị tài sản Nguyễn Như M chiếm đoạt là 66.000.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Như M đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản của họ, mục đích bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền án nên có nhân thân xấu.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên và bản án gần nhất xét xử bị cáo là Bản án số 43/HSPT ngày 12/9/2017, TAND tỉnh Tuyên Quang xử phạt 05 tháng tù về tội Đánh bạc, thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2017 và ra trại ngày 06/3/2018 nên bị cáo phạm tội lần này là tái phạm. Do đó bị cáo bị áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo đầu thú và gia đình bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tù trong khung hình phạt cách ly bị cáo ra ngoài xã một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại đã được nhận lại tài sản bị mất hoặc được bồi thường thiệt hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền mua điện thoại và tất cả đều không yêu cầu gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị giải quyết về trách nhiệm dân sự của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Về xử lý vật chứng: Buộc bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 27.000.000 đồng là số tiền bị cáo do phạm tội mà có, khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.

Đề nghị giải quyết về xử lý vật chứng của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Về án phí:Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểms khoản 1 và khoản 2Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 , Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 260 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Như M 32 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Như M phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 27.000.000 đồng.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngàyđược tống đạt bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HSST ngày 11/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về