Bản án 61/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/TLST-HS ngày 15/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74 /2019/QĐXXST-HS ngày 28/03 /2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh S, sinh năm 1995; ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 4, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 8/12; Con ông: Nguyễn Văn T; Con bà: Bùi Thị M; Vợ: Lê Thúy V; có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: 01 tiền án: Ngày 12/7/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản(ra trại 04/10/2018); Theo danh chỉ bản số 206 ngày 21/01/2019 do Công an thành phố Hà Nội lập; Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

Công ty tài chính TNHH một thành viên H.

Trụ sở: Tầng G, 8 và 10 Tòa nhà phụ nữ , số 20 N, phường T, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền anh Vũ Đình T – sinh năm 1975. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lưu Văn T , sinh năm 1993.

ĐKNKTT: Xã C, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2. Cửa hàng F tại số 422-424-426 C, phường D, quận C, Hà Nội. Vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1992.

Trú tại: 236 C, phố V, tổ 8 , phường P, quận T, Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua hoạt động kiểm soát nội bộ và phòng chống gian lận, Công ty Tài chính TNHH Một thành viên H (gọi tắt là công ty H) đã phát hiện: Ngày 07/8/2017, Nguyễn Thanh S đã sử dụng chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mang tên Lưu Văn T (SN: 18/02/1993, HKTT: Xã C, huyện N, tỉnh Thanh Hóa) ký hợp đồng tín dụng vay số tiền 15.026.890 đồng của Công ty H để mua điện thoại di động trả góp tại cửa hàng F số 422- 424-426 C, phường D, quận C, Hà Nội. Ngày 12/01/2018, Công ty H làm đơn tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của S gửi cơ quan công an.

Ngày 04/4/2018, Nguyễn Thanh S đến công an quận Cầu Giấy đầu thú.

Tại cơ quan công an, Nguyễn Thanh S khai: Khoảng đầu năm 2017, S ở chung và cùng làm với anh Lưu Văn T. Sơn để CMND của S vào trong ví của anh T nên S biết anh T để CMND và giấy phép lái xe trong ví. Đầu tháng 8/2017, S đã lấy chiếc ví cùng giấy tờ của anh T mang xuống Hà Nội và gặp một người bạn tên là N (S không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể). Qua trò chuyện, S được biết có thể dùng CMND và giấy phép lái xe để mua điện thoại di động dưới hình thức trả góp tại các cửa hàng T và F. S và N bàn với nhau về cách thức sử dụng CMND và giấy phép lái xe mang tên Lưu Văn T mục đích lừa dối nhân viên bán hàng của cửa hàng điện thoại để mua điện thoại di động dưới hình thức trả góp. Ngày 07/8/2017, S cùng N đến cửa hàng điện thoại di động F tại địa chỉ 422-424- 426 C, phường D, quận C, Hà Nội để mua 01 chiếc điện thoại di động Samsung S8 plus dưới hình thức trả góp. Tại đây, nhân viên Công ty H hướng dẫn S làm thủ tục ký hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp, chiếc điện thoại Samsung S8 plus có giá là 20.490.000 đồng, S phải nộp trước số tiền là 6.147.000 đồng cho cửa hàng F và được vay số tiền là 14.779.000 đồng, thời hạn trả góp là 06 tháng (tính từ ngày 07/9/2017 đến 07/02/2018). S đồng ý và đưa CMND, giấy phép lái xe mang tên Lưu Văn T rồi kê khai các thông tin do nhân viên yêu cầu để được duyệt hồ sơ. S kê khai các thông tin không đúng về người thân, nghề nghiệp, địa chỉ trên hợp đồng và khai tên mình là Lưu Văn T để phù hợp với CMND và giấy phép lái xe nêu trên. Sau khi được duyệt hồ sơ, S tự tay ký tên „„T‟‟ và viết tên „„Lưu Văn T‟‟ vào bộ hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3726476467 do nhân viên đưa. Sau đó, S được hướng dẫn ra quầy kế toán của cửa hàng F để thanh toán tiền và nhận điện thoại. Lúc này, S gọi N vào để N trả tiền và nhận chiếc điện thoại di động Samsung S8 plus rồi cả 2 ra về. S khai không được N chia lợi gì từ việc sử dụng giấy tờ mang tên Lưu Văn T để mua chiếc điện thoại trên cho N dưới hình thức trả góp. Chiếc ví bên trong có CMND và giấy phép lái xe của anh Lưu Văn Thức N đã làm mất.

Ngày 23/4/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy ra quyết định trương cầu giám định chữ ký và chữ viết của Nguyễn Thanh S với chữ ký tên tên “T” và chữ viết “Lưu Văn t” trên hợp đồng tín dụng do S ký với công ty H.

Kết luận giám định số 5294/KLGĐ-PC54(Đ4) ngày 14/6/2018 của Phòng Kỹ Thuật hình sự CATP Hà Nội kết luận:

- Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Lưu Văn T trên các mẫu cần giám định với mẫu chữ ký, chữ viết đứng tên Lưu Văn Ttrên mẫu so sánh không phải là chữ do cùng một người viết ra.

- Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Lưu Văn T trên các mẫu cần giám định với chữ ký, chữ viết mẫu thực nghiệm do đối tượng Nguyễn Thanh S ký và viết trên mẫu so sánh là chữ do cùng một người ký và viết ra.

Lời khai nhận tội của S phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Việc S khai cùng N thực hiện hành vi là không có cơ sở,qua điều tra không xác định được đối tượng N.

Gia đình Nguyễn Thanh S đã tự nguyện khắc phục số tiền còn lại là 15.026.890 đồng cho công ty H. Anh Vũ Đình T – Đại diện theo ủy quyền của công ty H đã nhận lại số tiền trên và không có yêu cầu gì khác.

Anh Lưu Văn T khai chiếc ví đã cũ, không còn giá trị, CMND và giấy phép lái xe đã làm lại nên không yêu cầu S bồi thường chiếc ví cùng CMND và giấy phép lái xe của anh.

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKSCG ngày 13/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố bị cáo Nguyễn Thanh S về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản‟‟ được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thanh S về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản‟‟. Áp dụng khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự ; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt: Nguyễn Thanh S từ 08 đến 10 tháng tù Về phần dân sự: Người bị hại , người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì nên không đề nghị xem xét giải quyết.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Thanh S thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội, Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội,Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thanh Sơn tại phiên tòa phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp với lời khai và đơn trình báo của đại diện bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã được thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đồng thời căn cứ vào Kết luận giám định số 5294/KLGĐ-PC54(Đ4) ngày 14/6/2018 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội. Đủ cơ sở kết luận: Ngày 07/8/2017, Nguyễn Thanh S có hành vi sử dụng giấy tờ mang tên anh Lưu Văn T(sinh ngày 18/02/1993, ĐKHKTT: Xã C, huyện N, tỉnh Thanh Hóa) ký hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp để mua chiếc điện thoại Samsung S8 plus dưới hình thức trả góp nhằm chiếm đoạt số tiền 15.026.890 đồng của công ty H tại cửa hàng F số 422-424-426 C, phường D, quận C, Hà Nội. Hành vi nêu trên của Nguyễn Thái S đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” , tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, vì cần tiêu sài cá nhân bị cáo đã sử dụng giấy tờ của người khác ký hợp đồng mua điện thoại trả góp nhằm chiếm đoạt số vay của Công ty Tài chính, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, xâm phạm đến hoạt động kinh doanh và làm thiệt hại về kinh tế của Công ty tài chính được pháp luật bảo vệ. Nhân thân bị cáo có 1 tiền án, hành vi phạm tội xảy ra vào ngày 03/9/2017 đến ngày 12/7/2018 Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi phạm tôị bị xét xử lần này xảy ra vào ngày 07/8/2017, nhưng hành vi phạm tội sau được đưa ra xét xử trước, hành vi phạm tội trước xử sau nên bị cáo không bị tính là tái phạm, nhưng qua đó thể hiện bị cáo là người chấp hành pháp luật kém. Vì vậy cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết giảm nhẹ hình phạt: Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, bị cáo đã tích cực tác động gia đình tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường cho người bị hại để áp dụng điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng và bồi thường dân sự: Đối với chiếc ví đã cũ, CMND và giấy phép lái xe của anh Anh Lưu Văn T do bị cáo làm mất, anh Lưu Văn c khai chiếc ví đã cũ, không còn giá trị, CMND và giấy phép lái xe đã làm lại nên không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Người bị hại là Công ty tài chính TNHH một thành viên H đã nhận được số tiền 15.026.890 đồng do chị Nguyễn Thị H là chị gái bị cáo Nguyễn Thanh S đã tự nguyện khắc phục hậu quả để bồi thường thay cho bị cáo. Người bị hại và chị H không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản‟‟

*Áp dụng: khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự ; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thanh S 07(bẩy) tháng tù.

- Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Áp dụng: Khoản 1, điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự . Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí.

- Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về