Bản án 61/2018/HS-ST ngày 25/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 61 /2018/HS-ST NGÀY 25/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2018/HSST ngày 06 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2018/QĐXXST-HS ngày12 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐTS; Sinh năm: 1981; Trú tại: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/12; Con ông: DTN (Đã chết) và bà NTD; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: 02 tiền sự:

+ Ngày 31/08/2017, UBND xã DG ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

+ Ngày 29/12/2017, Công an xã Đức Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Ném chất bẩn làm hoen bẩn nhà người khác (bị can chưa chấp hành hình phạt).

Tiền án: Chưa có

Nhân thân: Năm 2011, UBND huyện Hoài Đức ra Quyết định về việc đưa người vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc.

Tạm giữ, tạm giam: từ ngày 15/04/2018 đến nay tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa;

 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 15/04/2018, ĐTS (Sinh năm 1981, HKTT: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội) đi đến khu vực phố Thú Y thuộc xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội gặp một người đàn ông tên là Tý (không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể) hỏi và mua được của Tý 01 (một) túi nilông chứa ma túy “đá” kích thước (3x5)cm với giá 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, S lấy một phần ma tuý cho vào 01 (một) cóong thuỷ tinh và cầm trên tay phải, phần ma tuý còn lại trong túi nilông S cất giấu ở túi quần sau bên trái của mình rồi đi bộ về hướng Thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội (BL 39-40, 47-48). Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi S đang ngồi uống nước tại quán ven đường 422 thuộc Khu 6, TTTT, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội và thấy lực lượng Công an, S đã lấy từ trong túi quần phía sau bên trái S đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng có kích thước (3x5)cm thả xuống mặt đất ngay vị trí S đang ngồi thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ tang vật (BL 24-25, 37-38).

Vật chứng thu giữ:

+ 02 phong bì (ký hiệu là M1 và M2) niêm phong được dán kín của Công an thành phố Hà Nội. Mặt trước phong bì niêm phong ghi tên đối tượng ĐTS – Sinh năm 1981, HKTT: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Mặt sau, tại các mép dán phong bì niêm phong còn nguyên vẹn chữ ký, họ tên của giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Tạ Thạc Nam và đối tượng ĐTS, ngày 15/4/2018.

+ 01 ống hút nhựa màu xanh.

+ 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng vàng, đã qua sử dụng, có số IMEI: 358754054778956.

+ 01 điện thoại trên bề mặt có in chữ “Mater”, màu xanh đen có 02 số IMEI: 301014159900650 và 301014159900668.

Tại bản kết luận giám định số 3639/KLGĐ-PC54 ngày 22/04/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận (BL 57) :

-  Tinh thể màu trắ ng bên trong 01 túi nilông thu giữ của ĐTS (ký hiệu mẫu M1) là ma túy loại Methamphetamine, khố i lượng 2,587 gam.

-  Tinh thể màu trắ ng bên trong 01 cóong thủ y tinh thu giữ củ a ĐTS (ký hiệu mẫu M2) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,401 gam.

Đối với người đàn ông tên Tý, theo ĐTS khai có đặc điểm: khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1,70m, dáng người gầy, da ngăm đen bán ma túy cho S vào ngày 15/04/2018 tại khu vực phố Thú Y thuộc xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Cơ quan điều tra Công an huyện Hoài Đức đã tiến hành xác minh nhưng không rõ là đối tượng nào nên không có cơ sở để xem xét, xử lý (BL 69).

Tại Công an huyện Hoài Đức bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản cáo trạng số 65/CT - VKS ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáoĐTS về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm s Khoản 1 Điều 51;Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo ĐTS mức án từ 24 đến 30 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên Trả lại 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng vàng, đã qua sử dụng có số IMEI: 358754054778956 và 01 điện thoại trên bề mặt có in chữ “Mater”, màu xanh đen có 02 số IMEI: 301014159900650 và 301014159900668cho bị cáo.

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì (ký hiệu là M1 và M2) niêm phong được dán kín của Công an thành phố Hà Nội. Mặt trước phong bì niêm phong ghi tên đối tượng ĐTS – Sinh năm 1981, HKTT: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Mặt sau, tại các mép dán phong bì niêm phong còn nguyên vẹn chữ ký, họ tên của giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Tạ Thạc Nam và đối tượng ĐTS, ngày 15/4/2018.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 ống hút nhựa màu xanh.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

[1].Hồi 15 giờ 30 phút ngày 15/04/2018, ĐTS (Sinh năm 1981, HKTT: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội) là đối tượng nghiện ma túy đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý loại Methamphetamine với tổng khối lượng 2,988 gam tại Khu 6, TTTT, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Hoài Đức phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ số tang vật.

[2].Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nêu trên của bị cáoĐTS đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi phạm tội và gây nên những tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bản thân bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại thời điểm phạm tội, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ.

Tại phiên toà bị cáo ĐTS đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo Bản cáo trạng và Lời luận tội của Viện kiểm sát. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận ĐTS phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ pháp luật.

 [3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm, tạo lên sự bất ổn định của tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương; tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; Toà án xét xử nghiêm minh vụ án nhằm giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.

 [4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo ĐTS không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáoĐTS đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tạiĐiểms Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [6]. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo ĐTS không có đủ điều kiện để tự cải tạo ngoài môi trường xã hội bình thường mà cần thiết phải áp dụng hình phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù là tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo. Bởi vậy Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn là phù hợp.

Bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo việc thi hành án, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày (bốn mươi lăm ngày) kể từ ngày tuyên án.

 [7]. Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo. [8]. Về vật chứng:

Đối với 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng vàng, đã qua sử dụng có số IMEI: 358754054778956 và 01 điện thoại trên bề mặt có in chữ “Mater”, màu xanh đen có 02 số IMEI: 301014159900650 và 301014159900668 là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 ống hút nhựa màu xanh là vật không có giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số ma túy đã thu giữ trong 02 phong bì (ký hiệu là M1 và M2) niêm phong được dán kín của Công an thành phố Hà Nội. Mặt trước phong bì niêm phong ghi tên đối tượng ĐTS – Sinh năm 1981, HKTT: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Mặt sau, tại các mép dán phong bì niêm phong còn nguyên vẹn chữ ký, họ tên của giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Tạ Thạc Nam và đối tượng ĐTS, ngày 15/4/2018 là chất cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

 [9].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

 [10].Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo ĐTS phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo ĐTS 24 (hai mƣơi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ Luật tố tụng Hình sự:

Trả lại 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng vàng, đã qua sử dụng có số IMEI: 358754054778956 và 01 điện thoại trên bề mặt có in chữ “Mater”, màu xanh đencó 02 số IMEI:  301014159900650 và 301014159900668cho bị cáo.

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì (ký hiệu là M1 và M2) niêm phong được dán kín của Công an thành phố Hà Nội. Mặt trước phong bì niêm phong ghi tên đối tượng ĐTS – Sinh năm 1981, HKTT: Thôn CH, xã ĐG, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Mặt sau, tại các mép dán phong bì niêm phong còn nguyên vẹn chữ ký, họ tên của giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Tạ Thạc Nam và đối tượng ĐTS, ngày 15/4/2018.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 ống hút nhựa màu xanh.  (Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/7/2018 giữa Công an huyện Hoài Đức và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội).

* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo ĐTS phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HS-ST ngày 25/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về