Bản án 61/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 61/2018/HS-ST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2018 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã HB, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2018/TLST-HS ngày 10/8/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trƣơng Văn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 06/8/1972; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm ĐL, xã TL, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán dìu; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Trương Văn S; Con bà: Nguyễn Thị M, đều đã chết; Vợ: Lục Thị H, sinh năm 1975; Có 02 con chung, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1995; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Đinh Văn Đ, sinh năm 1979 – Vắng mặt.

Trú tại: Xóm MH, xã CT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

+ Người chứng kiến: Chị Lâm Thị N, sinh năm 1970 – Có mặt.

Trú tại: Xóm ĐL, xã TL, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 45 phút ngày 03/4/2018, tổ công tác Công an huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại xóm ĐL, xã TL, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên thì nhận được tin báo tại nhà ở của Trương Văn H (sinh năm 1972, trú tại xóm ĐL, xã TL, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên), có biểu hiện liên quan đến mua bán chất ma túy, tổ công tác đến nhà H, kiểm tra thì thấy tại nhà của H có H và Đinh Văn Đ (sinh năm 1979, trú tại xóm MH, xã CT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên). Qua kiểm tra đã thu giữ tại vị trí H đang đứng 01(một) gói giấy bạc màu vàng ở trên mặt bàn uống nước, 01 (một) gói giấy bạc màu trắng tại chân ghế cách vị trí H đang đứng 0,5 mét, bên trong đều chứa chất bột màu trắng (H khai nhận số chất bột màu trắng thu giữ là Heroine của H, khi thấy tổ công tác đến H đã bỏ xuống). Tiếp tục kiểm tra tổ công tác phát hiện thu giữ tại túi quần phía trước bên phải H đang mặc số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Tiến hành kiểm tra đối với Đ tổ công tác đã phát hiện thu giữ tại túi quần phía sau bên trái Đ đang mặc 02 (hai) gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng (Đ khai là Heroine do Đ vừa mua được của H). Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 (một) chiếc xe môtô, nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, BKS: 20B1 – 026.37 của Điệp. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Vào hồi 13 giờ cùng ngày, khám xét khẩn cấp nơi ở của Trương Văn H, kết quả khám xét thu giữ: 02 (hai) gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng tại tủ tivi trong phòng khách bên tay phải từ ngoài cửa chính đi vào nhà. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đinh Văn Đ, kết quả khám xét: Không phát hiện thu giữ gì.

Tiến hành cân xác định trọng lượng số chất bột màu trắng thu giữ của H (khi bắt quả tang và khám xét) có tổng trọng lượng là 0,196 gam; số chất bột màu trắng thu giữ của Đ là 0,063 gam.

Tại Bản kết luận giám định số 550/KL- PC54 ngày 09/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Trương Văn H là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,196 gam; của Đinh Văn Đ là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,063 gam.

Tại cơ quan điều tra, bị can Trương Văn H khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy nên H thường xuyên phải đi mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 09 giờ ngày 28/3/2018 H một mình đi đến khu vực xã BĐ, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên để mua Heroine. Tại đây, H đã gặp và mua 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) Heroine của một người đàn ông không quen biết. Sau khi mua xong H mang về chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. Trong khoảng thời gian từ ngày 29/03/2018 đến ngày 03/4/2018 tại nhà của mình, H đã nhiều lần bán Heroine cho Đinh Văn Đ cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 08 giờ ngày 29/03/2018, H đã bán cho Đ 01 gói Heroine, với giá 100.000 đồng.

Lần 2: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 01/4/2018, H đã bán cho Đ 01 gói Heroine, với giá 100.000 đồng.

Lần 3: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 03/4/2018, H tiếp tục bán cho Đ 02 gói Heroine giá 200.000 đồng/02 gói. Khi H vừa nhận tiền và đưa Heroine cho Đ xong thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng vụ án gồm:

+ 05 phong bì niêm phong ký hiệu A1, A2, A3, LK, LK1 bên trong có chứa vỏ bì và số Heroine còn lại sau giám định;

+ Số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản, lưu giữ tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên chờ xử lý.

+ 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA loại xe Wave, mang BKS: 20B1 – 026.37. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã trả lại cho chủ sở hữu là Đinh Văn Đ, quản lý và sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số 58/CT-VKSĐH, ngày 08/8/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trương Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trương Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Xử phạt bị cáo Trương Văn H từ 08 đến 09 năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2018. Phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 6 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 05 phong bì niêm phong ký hiệu A1, A2, A3, LK, LK1.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng.

+ Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng của bị cáo do bán ma túy mà có.

Về án phí áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát, trong lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Do bản thân là đối tượng nghiện ma túy nên Trương Văn H thường xuyên mua Heroine về để sử dụng và bán kiếm lời. Trong khoảng thời gian từ ngày 29/3 đến ngày 03/4/2018, tại nhà ở của mình thuộc xóm ĐL, xã TL, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, H đã nhiều lần bán Heroine cho Đinh Văn Đ; cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 08 giờ ngày 29/3/2018, H đã bán cho Đ 01 gói Heroine, với giá 100.000 đồng.

Lần 2: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 01/4/2018, H đã bán cho Đ 01 gói Heroine, với giá 100.000 đồng.

Lần 3: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 03/4/2018, H tiếp tục bán cho Đ 02 gói Heroine giá 200.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trương Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lơi khai nhâ n tôi cua bi cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lơi khai cua bi cao tai cơ quan điêu tra , phù hợp vơi lơi khai cua người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, bản kêt luân giam đinh và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hôi đông xét xư thấy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự quy định như sau:

 “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a)…..;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,....”.

 [2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhưng là đối tượng nghiện chất ma túy. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú khai ra các lần phạm tội trước của mình nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, chưa  ó tiền án, tiền sự nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo, buộc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy mục đích để bản thân sử dụng và bán kiếm lời, theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản, không có thu nhập, bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [3]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 05 phong bì niêm phong kí hiệu A1, A2, A3, LK và LK1 (bên trong có chứa vỏ bì và số Heroine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo, đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng của bị cáo do bán ma túy cho Đinh Văn Điệp vào ngày 29/3 và ngày 01/4/2018 mà có.

- Đối với 01 xe môtô hiệu HONDA loại xe Wave mang BKS: 20B1 – 026.37 thu giữ của Đinh Văn Điệp, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên không liên quan đến vụ án nên ngày 26/4/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã trả lại cho chủ sở hữu là Đinh Văn Đ, quản lý và sử dụng là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Anh Đinh Văn Điệp là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

 [4]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Đối với hành vi mua Heroine để sử dụng của Đinh Văn Đ, xét thấy hành vi này của Đ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên ngày 24/7/2018 Cơ quan Công an huyện Đồng Hỷ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đinh Văn Đ là phù hợp.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa theo H khai báo về nguồn gốc số Heroine là do H mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực xã BĐ, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên, do không xác định được lai lịch cụ thể của đối tượng trên nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố: Bị cáo Trƣơng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt Trương Văn H: 07 (Bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2018. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Quyết định tạm giam Trương Văn H 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án:

+ Tịch thu tiêu hủy: 05 (Năm) phong bì niêm phong ký hiệu A1, A2, A3, LK và LK1.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo do phạm tội mà có.

+ Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) của bị cáo do phạm tội mà có.

 (Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/8/2018 giữa Công an huyện Đồng Hỷ với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đồng Hỷ và Uỷ nhiệm chi chuyển khoản tiền điện tử số 97 ngày 22/8/2018 giữa Công an huyện Đồng Hỷ, Kho bạc nhà nước huyện Đồng Hỷ và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đồng Hỷ).

3. Án phí: Buộc bị cáo Trương Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo; vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về