Bản án 61/2017/HNGĐ-ST ngày 13/07/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 61/2017/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 13 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 749/2016/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2016 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Châu Thị Cẩm C, sinh năm 1995; Địa chỉ: Ấp G, xã GL, huyện T, tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú hiện nay: ấp Ấp C, xã C G, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Minh H, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp G, xã GL, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, chị Châu Thị Cẩm C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Minh H được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 05/10/2015, theo giấy chứng nhận kết hôn số 157/2015, quyển số 01/2015 của Ủy ban nhân dân xã G L, huyện T. Sau khi cưới nhau vợ chồng chị sống chung với cha mẹ anh H. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến tháng 7/2016, vợ chồng chị xảy ra mâu thuẫn và mất hạnh phúc, chị dẫn con về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng chị đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Nguyên nhân mất hạnh phúc là do anh H uống rượu về đánh đập và đuổi chị C ra khỏi nhà. Từ khi ly thân cho đến nay vợ chồng chị không ai có thiện chí hàn gắn tình cảm. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị C yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Trong thời gian sống chung chị và anh H có một người con chung là cháu gái tên N T K N, sinh ngày 11/3/2016, hiện cháu đang theo sống với chị. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Thời gian sống chung chị và anh Nguyễn Minh H chưa tạo lập được tài sản chung và hiện không có nợ ai nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn, anh Nguyễn Minh H trình bày thể hiện trong hồ sơ: Phù hợp với lời khai của chị C về thời gian vợ chồng chung sống, thời điểm kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị C không lễ phép với mẹ chồng, không phụ giúp công việc trong gia đình, tính tình chị C cọc cằn. Sau khi chị C về nhà cha mẹ ruột sống thì anh có đặt vấn đề đoàn tụ nhưng chị C chưa đồng ý. Nay anh không đồng ý ly hôn với chị C.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: anh H không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng.

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng:

- Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án;

- Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn;

- Nguyên đơn: Thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

- Bị đơn: Không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự, của bị đơn theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh H vắng mặt trong phiên hòa giải và phiên tòa gây khó khăn, kéo dài thời gian cho Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án.

2. Việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C đối với anh H.

Về con chung: Giao cháu N T K N, sinh ngày 11/3/2016 cho chị C tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận chị C không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh H lần thứ hai, anh H vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị C và anh H tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong thời gian sống chung đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H có hành vi bạo lực gia đình. Chị C trình bày anh H có hành vi đánh đập chị và anh H cũng thừa nhận có đánh chị C.

Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh H nhiều lần để tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H đều cố tình vắng mặt do đó Tòa án không thể tiến hành hòa giải được. Điều đó chứng tỏ anh H không có thiện chí hòa giải hàn gắn mối quan hệ vợ chồng với chị C. Xét hôn nhân của chị C và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không thể đạt được. Chị C xin ly hôn với anh H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Cháu Nguyễn Thị Kim Ngân, sinh ngày 11/3/2016, cháu Ngân chưa đủ 36 tháng tuổi và chị C đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Do đó, giao chị C tiếp tục trực tiếp nuôi cháu Ngân là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về Chia tài sản, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng là có căn cứ và phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ vào quy định tại khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Chị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Châu Thị Cẩm C và anh Nguyễn Minh H.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung N T K N, sinh ngày 11/3/2016 cho chị Châu Thị Cẩm C tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

2.2. Ghi nhận chị C không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về Chia tài sản và nợ chung: Chị C và anh H không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Châu Thị Cẩm C phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị C đã nộp 200.000 đồng theo biên lai số 0008333 ngày 21/12/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng. (chị C đã nộp đủ án phí).

Chị Châu Thị Cẩm C được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Minh H được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2017/HNGĐ-ST ngày 13/07/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:61/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về