Bản án 610/2019/HS-PT ngày 10/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 610/2019/HS-PT NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 494/2019/TLPT-HS, ngày 03 tháng 7 năm 2019 do có kháng cáo của người bị hại Ngô Văn T, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai.

* Bị cáo bị kháng cáo:

Lê Thị H, sinh năm 1974 tại Lào Cai, giới tính: Nữ; Nơi cư trú: Tổ 12, phường C, thành phố C, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và con bà Trịnh Thị C; chồng (đã ly hôn) anh Nguyễn Quốc T, có 02 con, con lớn nhất sinh năm1999, con nhỏ nhất sinh năm 2012; hiện sống như vợ chồng với anh Chu Văn C; tiền án, tiền sự: Không, nhân thân: Ngày 05/6/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trái phép”; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2017 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị H: Ông Cao Trần Th, Luật sư của Công ty luật hợp danh V, thuộc Đào Luật sư tỉnh Lào Cai; có mặt.

* Người bị hại có kháng cáo: Ngô Văn T, sinh năm 1972;

Trú tại: Tổ 28, phường H, thành phố C, tỉnh Lào Cai, có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền cho ông Ngô Văn T: Ông Nguyễn Mạnh T1, sinh năm 1963;

Đa chỉ: Số 157, phố C, phường N, quận T, Thành phố Hà Nội, có mặt (theo văn bản ủy quyền ngày 04/6/2019).

* Ngoài ra còn có những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập gồm: Nguyễn Duy L, Nguyễn Duy M, Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn Q, Phạm Thị Thanh H, Phạm Thị T, Đinh Thị L, Ngô Thị H1, Ngô Thị H2 và Chu Văn C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị H làm nghề kinh doanh nên đã vay tiền của nhiều người để làm ăn, nhưng bị thua lỗ dẫn đến không có khả năng thanh toán. Vì vậy, để có tiền thanh toán cho những con nợ, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của nhiều người. Hành vi của bị cáo Lê Thị H được thể hiện như sau: Để những người bị hại tin tưởng đưa tiền cho mình, bị cáo đã nói dối với những người bị hại gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng thông qua H sẽ được hưởng lãi suất cao ngoài quy định; hoặc H dùng giấy tờ hợp pháp chứng minh tài sản (như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để thế chấp vay tiền, sau đó bị cáo nói với người cho bị cáo vay gửi số tiền đó vào Ngân hàng thông qua H để được hưởng lãi suất cao và H đã lấy lại giấy tờ đã thế chấp sau đó chuyển nhượng cho người khác. Các bị hại do muốn được hưởng lãi suất cao hơn nhiều lần so với lãi suất gửi tiết kiệm tại Ngân hàng nên đã tin tưởng đưa tiền cho bị cáo H; sau mỗi lần nhận tiền, Lê Thị H đã đưa cho những người bị hại ký khống vào các giấy gửi tiền do Ngân hàng phát hành (H đã lấy các giấy này tại các bàn giao dịch của Ngân hàng); sau đó bị cáo đã ra Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam (sau đây gọi tắt là AgriBank) chi nhánh Cam Đường, hoặc AgriBank chi nhánh Kim Tân - Phòng giao dịch Bắc C tự điền các thông tin của các bị hại vào các mục quy định trong giấy gửi tiền và gặp các giao dịch viên Ngân hàng làm thủ tục gửi tiết kiệm đứng tên những người bị hại nhưng với số tiền một sổ tiết kiệm chỉ từ 1.000.000đ đến 5.000.000đ. Sau đó bị cáo nhờ người chỉnh sửa tại mục số tiền gửi (cả bằng số và bằng chữ) ở mặt sau của sổ tiết kiệm từ số tiền 1.000.000đ, hoặc 5.000.000đ lên thành số tiền tương ứng với số tiền mà những người bị hại đã chuyển cho bị cáo để nhờ bị cáo gửi tiết kiệm; sau khi đã chỉnh sửa giá trị số tiền trên sổ tiết kiệm phù hợp với số tiền mà người bị hại chuyển cho, bị cáo đã đưa sổ tiết kiệm đó cho những người bị hại; số tiền chênh lệch bị cáo đã chiếm đoạt.

Cụ thể, bị cáo đã chiếm đoạt của ông Ngô Văn T số tiền 77.800.000.000đ, hành vi của bị cáo được thể hiện: Do đã nhiều lần H vay tiền và đã thanh toán cho ông T đúng thời hạn, nên khi bị cáo nói gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng thông qua bị cáo để được hưởng lãi suất cao hơn quy định, ông T đã tin tưởng và trong thời gian từ ngày 11/01/2017 đến ngày 12/2017 ông T đã 17 lần chuyển tiền cho bị cáo với số tiền 135.400.000.000đ vào các ngày cụ thể: Ngày 11/01/2017 ông T chuyển trực tiếp cho H 11.000.000.000đ, ngày 12/01/2017 chuyển 20.000.000.000đ, ngày 13/01/2017 chuyển 14.000.000.000đ, ngày 16/01/2017 chuyển 6.000.000.000đ, ngày 17/01/2017chuyển 2.000.000.000đ, ngày 21/02/2017 chuyển 4.300.000.000đ, ngày 09/3/2017 chuyển 400.000.000đ, ngày 10/3/2017 chuyển 1.400.000.000đ, ngày 13/3/2017 chuyển 20.000.000.000đ, ngày 13/3/2017 chuyển 14.000.000.000đ, ngày 14/3/2017 chuyển 13.300.000.000đ, ngày 21/3/2017 chuyển 4.000.000.000đ, ngày 03/4/2017 chuyển 2.700.000.000đ, ngày 04/4/2017 chuyển 1.000.000.000đ, ngày 05/4/2017 chuyển 1.000.000.000đ, ngày 12/4/2017 chuyển 6.000.000.000đ. Sau mỗi lần chuyển tiền Lê Thị H đã đưa cho ông T ký khống vào các giấy gửi tiền, sau đó H đến AgriBank chi nhánh Cam Đường gặp giao dịch viên làm thủ tục để gửi tiền tiết kiệm 1.000.000đ/1 sổ tiết kiệm đứng tên Ngô Văn T. Sau khi có sổ tiết kiệm, bằng thủ đoạn sửa chữa mục giá trị số tiền, bị cáo đã nhờ người sửa 17 sổ tiết kiệm từ trị giá 17.000.000đ lên thành tổng số tiền 135.400.000.000đ (tương ứng với số tiền ông T đã chuyển cho bị cáo từng lần vào từng sổ) và chuyển cho ông T. Một thời gian sau, do có nhu cầu sử dụng tiền nên ông T đề nghị H rút tiền trong 06 số tiết kiệm với tổng số tiền 57.300.000.000đ; bị cáo đã chuyển lại cho ông T số tiền này, số tiền còn lại là 77.800.000.000đ H đã sử dụng vào việc thanh toán nợ cho một số người khác và chi tiêu cá nhân.

Ngoài ra, với thủ đoạn trên cũng như dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không còn giá trị để thế chấp vay tiền, trong thời gian từ tháng 12/2016 đến ngày 19/4/2017 bị cáo đã lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhiều người. Cụ thể, chiếm đoạt của bà Phạm Thị Thanh H số tiền 73.700.000.000đ; chiếm đoạt của bà Phạm Thị T số tiền 300.000.000đ; chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn Q số tiền 76.500.000.000đ; chiếm đoạt của bà Đinh Thị L số tiền 3.300.000.000đ; chiếm đoạt của bà Ngô Thị H1 số tiền 7.500.000.000đ; chiếm đoạt của bà Ngô Thị H2 số tiền 2.000.000.000đ.

Tng số tiền bị cáo chiếm đoạt của những người bị hại là 239.100.000.000đ. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra bị cáo cũng như gia đình bị cáo đã hoàn trả lại toàn bộ số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt cho những người bị hại như: Ông Ngô Văn T, bà Phạm Thị T, bà Ngô Thị H1, bà Ngô Thị H2, bà Đinh Thị L; tại phiên tòa sơ thẩm những người này không có yêu cầu gì.

Tại các bản Kết luận giám định đều kết luận: Phôi sổ tiết kiệm, hình dấu tròn đỏ của các Ngân hàng, hình dấu chức danh, chữ ký mang dấu chức danh, chữ ký mang tên của các giao dịch viên, chữ ký của những người bị hại đều là thật (trừ 01 số tiết kiệm mang tên Nguyễn Duy L do bị cáo H tự ký); chữ viết tại các thông tin trên giấy gửi tiền là chữ của Lê Thị H; tại các vị trí in số tiền bằng chữ, số tiền bằng số ở mặt sau của sổ tiết kiệm bị tẩy xóa, sửa chữa và được in bằng loại máy in, loại mực khác với các nội dung trên sổ tiết kiệm.

Với nội dung trên tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Thị H 17 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2017.

Ngoài ra bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04 tháng 6 năm 2019 người bị hại là ông Ngô Văn T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra bổ sung đối với pháp nhận thương mại là AgriBank chi nhánh Kim Tân và AgriBank chi nhánh Cam Đường, xem xét trách nhiệm hình sự và trách nhiệm bồi thường dân sự của AgriBank Việt Nam đối với thiệt hại gây ra để bảo vệ quyền về tài sản cho các bị hại.

Ngày 17/6/2019 ông T có đơn kháng cáo bổ sung, cho rằng sau khi ông có đơn kháng cáo gửi Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai thì Thẩm phán, thư ký đã nhiều lần gọi điện yêu cầu ông đến nhận giấy triệu tập để làm lại nội dung kháng cáo là xâm phạm đến quyền kháng cáo của ông.

Tại phiên tòa người kháng cáo và người đại diện hợp giữ nguyên nội dung kháng cáo.

- Bị cáo Lê Thị H trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã quy kết.

- Ông Ngô Văn T và người đại diện của ông T trình bày: Cấp sơ thẩm chỉ quy kết một mình bị cáo H phạm tội là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, bởi vì:

Trong tổng số 17 số tiết kiệm của ông T có 06 sổ đã được rút tiền với số tiền 57.300.000.000đ là bị cáo H tự rút nhưng Ngân hàng vẫn để bị cáo rút là vi phạm Điều 13 Quyết định số 797 của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

Ngân hàng đã tự ý giao các sổ tiết kiệm của những người bị hại cho bị cáo H để bị cáo có điều kiện tẩy xóa, sửa chữa số tiền để lừa đảo chiếm đoạt tiền của người bị hại, nên Ngân hàng là người đã tiếp tay cho bị cáo H; phải xem xét trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là AgriBank Việt Nam.

Theo bị cáo khai, sau khi lấy được các cuốn sổ tiết kiệm, bị cáo đã thuê Trần Mạnh C tẩy xóa, sửa chữa giá trị số tiền trên các số tiết kiệm, nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ vai trò của ông C, cũng không đưa ông C vào tham gia tố tụng.

Hơn nữa, ngày 20/6/2018 ông T mới nhận từ gia đình bị cáo H 04 tài sản trị giá 6.200.000.000đ nhưng ông bị ép buộc viết giấy nhận đủ tiền và phải viết đơn xin bãi nại cho bị cáo H. Do đó phần còn lại phải buộc bị cáo H thanh toán cho ông T là 71,6 tỷ đồng.

Bị cáo chưa thật sự thành khẩn khai báo vì chưa khai ra đồng phạm nên cấp sơ thẩm cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” là không đúng.

Từ đó, ông Ngô Văn T đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội, hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra thấy rằng: Cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật; khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 17 năm tù là có căn cứ.

Đi với kháng cáo của ông Ngô Văn T thấy rằng: Quá trình điều tra đã điều tra nhưng không không có căn cứ chứng minh vai trò đồng phạm của Trần Mạnh C, nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự; cũng như chưa đủ căn cứ chứng minh có sự tiếp tay hoặc thông đồng giữa các cán bộ Ngân hàng với bị cáo H để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên. Do đó, không có căn cứ để quy kết đối với các cán bộ cũng như các Ngân hàng như yêu cầu của người bị hại. Đối với một số nội dung yêu cầu khác của người bị hại đã được cấp sơ thẩm điều tra, làm rõ nên không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại như kháng cáo của ông T.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Người bào chữa cho bị cáo H tại phiên tòa trình bày: Nht trí như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội; tại phiên tòa phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị H khai nhận hành vi phạm tội xẩy ra như quy kết của Bản án sơ thẩm. Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; lời khai của người bị hại, những người làm chứng thấy các lời khai này phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đặc biệt là phù hợp với các kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Do nợ nần tiền để đầu tư làm ăn nhưng bị thua lỗ không có khả năng thanh toán, Lệ Thị H đã đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm cho người bị hại tin tưởng chuyển tiền cho bị cáo, sau đó bị cáo chiếm đoạt. Trong thời gian từ tháng 12/2016 đến tháng 4/2017 bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của nhiều người với tổng số tiền 239.100.000.000đ sau đó bỏ trốn. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt trên 500.000.000đ nên cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hửu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân, nên cần phải xử phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Khi xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chưa đánh giá đúng tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, nên đã xử phạt bị cáo mức án 17 năm tù là không đúng pháp luật, chưa tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, do không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo, nên cấp phúc thẩm không căn cứ để tăng hình phạt đối với bị cáo H. Nhưng cần kiến nghị với cấp Giám đốc thẩm xem xét lại mức hình phạt đối với bị cáo Lê Thị H.

[3] Xét kháng cáo của ông Ngô Văn T, Hội đồng xét xử thấy:

[3.1] Đối với kháng cáo bỏ lọt tội phạm, không đưa các Ngân hàng vào tham gia tố tụng: Mặc dù hành vi lừa đảo của bị cáo H có liên quan đến các số tiết kiệm của AgriBank chi nhánh Cam Đường và AgriBank chi nhánh Kim Tân. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định được các sổ tiết kiệm được phát hành đúng quy định, đúng giá trị theo số tiền người gửi, việc gửi tiền của bị cáo thực hiện đúng quy trình, đúng trình tự thủ tục của hệ thống Ngân hàng; sau khi lấy được các cuốn sổ tiết kiệm bị cáo mới tẩy xóa, sửa chữa lại trị giá số tiền trên từng sổ; việc làm này phía Ngân hàng hoàn toàn không biết và không kiểm soát được; không có căn cứ chứng minh bị cáo rút tiền từ các số tiết kiệm cũng như phối hợp với Ngân hàng thực hiện việc đảo kế đối với những khác hàng. Hơn nữa, sau khi bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt được tiền của những người bị hại mới thực hiện việc sửa chữa giá trị trên sổ tiết kiệm. Đối với việc bị cáo khai sau khi lấy được sổ tiết kiệm đã thuê Trần Mạnh C sửa chữa giá trị số tiền trên sổ tiết kiệm, nhưng chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo, phía Trần Mạnh C không thừa nhận và không có bất kỳ chứng cứ để chứng minh cho việc này, cơ quan Điều tra đã tiến hành đối chất giữa bị cáo với Trần Mạnh C nhưng bị cáo và C giữ nguyên lời khai. Quá trình điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai cũng như Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã nhiều lần trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu điều tra, làm rõ để xem xét trách nhiệm của Ngân hàng và làm rõ có hay không sự đồng phạm của những đối tượng khác. Tuy nhiên, không có căn cứ nên Viện kiểm sát không truy tố nên Tòa án không có căn cứ để xử lý. Từ đó thấy rằng, việc đưa các Ngân hàng vào tham gia tố tụng, cũng như quá trình điều tra không có thủ tục tố tụng điều tra đối với pháp nhân thương mại là đúng pháp luật. Hơn nữa, Vụ án xẩy ra từ cuối năm 2016 đến tháng 4 năm 2017; tại thời điểm này Bộ luật hình sự năm 2015 cũng như Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực; theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì chưa quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhận thương mại, nên yêu cầu của ông Ngô Văn T là không có căn cứ.

[3.2] Đối với kháng cáo liên quan đến việc vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và một số người làm chứng, thấy: Căn cứ vào hồ sơ vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm đã mở phiên tòa nhiều lần để xét xử vụ án, các văn bản tố tụng đã được tống đạt hợp lệ cho ngững người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, những người này đều vắng mặt nên nhiều lần phải hoãn phiên tòa. Phiên tòa mở ngày 22/5/2019 đúng trình tự, các văn bản tố tụng đã được tống đạt hợp lệ, nhưng một số người tham gia tố tụng có đơn xin xét xử vắng mặt với nhiều lý do khác nhau, xét thấy sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử, nên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn quyết định xét xử vắng mặt họ là đảm bảo trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3.4] Đối với kháng cáo liên quan đến trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với ông Ngô Văn T, Hội đồng xét xử thấy: Quá trình điều tra có căn cứ khẳng định bị cáo H đã chiếm đoạt của người bị hại là ông Ngô Văn T tổng số tiền là 135.400.000.000đ, đến trước khi khởi tố vụ án bị cáo H đã hoàn trả cho ông T số tiền 57.300.000.000đ, còn lại số tiền 77.800.000.000đ. Tuy nhiên, đến ngày 20/6/2018 thì gia đình bị cáo H đã hoàn trả lại toàn bộ số tiền còn lại cho ông T, việc này được thể hiện tại đơn đề nghị ngày 20/6/2018, trong đơn này ông T xác nhận đã được gia đình bị cáo thanh toán hết toàn bộ số tiền mà bị cáo H đã chiếm đoạt của ông T nên ông không có yêu cầu gì về phần trách nhiệm dân sự; đồng thời ông T còn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo H. Đặc biệt tại phiên tòa sơ thẩm, một lần nữa ông T khẳng định phần trách nhiệm dân sự đã được giải quyết xong và không có yêu cầu gì. Xét thấy, việc đề nghị của ông T là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật đã được công khai xem xét thẩm định tại phiên tòa sơ thẩm nên Tòa án cấp sơ thẩm đã ghi nhận ý kiến của ông là đúng quy định của pháp luật, tôn trọng quyền định đoạt của đương sự; ông T cho rằng việc ông ghi nhận như trên là do ông bị ép buộc. Tuy nhiên, ông không có bất kỳ chứng cứ gì để chứng minh cho việc này. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận.

[3.4] Ngoài ra ông T còn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét một số nội dung khác, nhưng Hội đồng xét xử thấy những nội dung này không liên quan đến nội dung vụ án, không làm ảnh hưởng đến bản chất vụ án nên cấp phúc thẩm không có thẩm quyền xem xét.

Tng hợp các phân tích trên thấy rằng: Khi xét xử cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, giải quyết vụ án có căn cứ, đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo cũng như các đương sự trong vụ án, tại phiên tòa phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn T. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị hại Ngô Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Bị cáo không kháng cáo, người bị hại kháng cáo nhưng thuộc trường hợp không phải nộp án phí nên không phải nộp án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của người bị hại Ngô Văn T; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai; áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lê Thị H 17 (mười bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (tức ngày 12/10/2017).

Về án phí: Bị cáo, người bị hại kháng cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm;

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 14/2019/HS-ST ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 610/2019/HS-PT ngày 10/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:610/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về