Bản án 609/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 609/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 580/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 822/2020/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo :

1. Họ và tên: Nguyễn Hữu H - Sinh năm 1977; Nơi cư trú: xóm 10, xã Đồng Văn , huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu H và bà Nguyễn Thị H ; Anh, chị, em ruột có 4 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị bắt tạm giữ: từ ngày 16/09/2020 đến ngày 19/9/2020; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Văn T - Sinh năm 1987; Nơi cư trú: xóm 1, xã Đồng Văn , huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:

12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn B và bà Hoàng Thị T ; Anh, chị, em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ năm; Vợ: Nguyễn Thị Hoài T – sinh năm 1987; Con: có 01 con sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2020 đến ngày 19/9/2020; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Trần Khắc H - Sinh năm 1976; Nơi cư trú: xóm Nghĩa Hòa, xã Đồng Văn , huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Khắc T và bà Nguyễn Thị S ; Anh, chị, em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Võ Thị L – sinh năm 1978, con: có 2 con (lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2001); Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 16/09/2020 đến ngày 19/9/2020; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Lê Hồng V - Sinh năm 1993; Nơi cư trú: xóm 5, xã Nghi Liên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá:

12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Hồng T và bà Nguyễn Thị H ; Anh, chị, em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Nguyễn Thị N – sinh năm 1993, con: Lê Hồng Q - sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 16/09/2020 đến ngày 19/9/2020; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 13 giờ 00 phút, ngày 16/09/2020, tại quán cà phê Mi Mô Za số 358, đường Đặng Thai Mai, thuộc xã Hưng Đông, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Trần Khắc H cùng với Nguyễn Hữu H, Lê Hồng V và Lê Văn T đang có hành vi đánh bài “xiểng” được thua bằng tiền thì bị tổ công tác Công an xã Nghi Liên, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận vào hồi 11 giờ 00 phút, ngày 16/09/2020 Trần Khắc H cùng với Nguyễn Hữu H, Lê Văn T đến quán để uống nước. Tại đây, H , T, H gặp V là chủ quán cà phê đang ngồi chơi. Sau đó cả bốn người cùng rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh “xiểng” được thua mỗi ván từ 20.000 đồng đến 300.000 đồng. Trước khi đánh bạc Lê Hồng V mua 01 bộ bài tu lơ khơ 52 quân để sử dụng đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ, cùng ngày 16/09/2020 khi cả bốn đối tượng đang đánh bạc thì bị tổ công tác Công an xã Nghi Liên, Thành phố Vinh kiểm tra, bắt quả tang thu giữ tại chiếu bạc 01 bộ bài Tu lơ khơ gồm 52 quân bài đã qua sử dụng và thu tại vị trí Nguyễn Hữu H số tiền 350.000 đồng, thu tại vị trí Trần Khắc H số tiền 320.000 đồng, thu tại vị trí Lê Văn T số tiền 400.000 đồng và tại vị trí Lê Hồng V số tiền 490.000 đồng. Ngoài ra thu giữ trong người Trần Khắc H số tiền 1.300.000 đồng; Nguyễn Hữu H số tiền 6.000.000 đồng; Lê Văn T số tiền 4.400.000 đồng và Lê Hồng V số tiền 2.500.000 đồng.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận cụ thể như sau: Nguyễn Hữu H sử dụng 1.400.000 đồng để đánh bạc, Trần Khắc H sử dụng 400.000 đồng để đánh bạc; Lê Hồng V sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc; Lê Văn T sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 9.800.000 đồng nhưng đã sử dụng 40.000 đồng trả tiền thuốc, nước.

Cáo trạng số 607/VKS - HS ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân TP.Vinh truy tố Nguyễn Hữu H, Lê Hồng V, Lê Văn T và Trần Khắc H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện VKS vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 321,điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS xử phạt Xử phạt bị cáo Lê Hồng V từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ; Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ; Xử phạt bị cáo Trần Khắc H từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H từ 12tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo vì hoàn cảnh khó khăn. Buộc các bị cáo phải lao động công ích theo quy định pháp luật.

Áp dụng điểm a khoản 2 điều 106, điều 136 BLHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 9.760.000 đồng hiện có tại kho bạc Nhà nước Nghệ An. Tịch thu tiêu hủy bộ bài tu lơ khơ 52 quân hiện có tại Chi cục thi hành án Thành phố Vinh. Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu tài được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, các bị cáo …

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an Thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi đánh bài bằng hình thức đánh “xiểng” được thua bằng tiền tang số 9.800.000 đồng mà Nguyễn Hữu H, Lê Hồng V, Lê Văn T và Trần Khắc H thực hiện đã đủ yếu tố T tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điều 321 BLHS.

Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng, lối sống cộng đồng. Đánh bạc là tội phạm tệ nạn xã hội và là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác, cần xử lý nghiêm để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[2.1] Xét vai trò các bị cáo trong vụ án: Trong vụ án này Lê Văn T có số tiền đánh bạc lớn nhất, Lê Hồng V có số tiền đánh bạc lớn thứ hai nhưng với vai trò chủ nhà nên chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Nguyễn Hữu H, Trần Khắc H có số tiền đánh bạc tương đương nhau nên chịu trách nhiệm thứ hai trong vụ án.

[2.2] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ các bị cáo:

Đối với Lê Văn T tham gia đánh bạc tích cực, bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình gây ra nhưng do hám lợi bất chính nên phạm tội cần xử lý nghiêm. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, T khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần xử bị cáo mức hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giáo dục như đề nghị của đại diện VKS là đủ nghiêm. Đối với loại hình phạt này còn phải khấu trừ thu nhập nhưng xét bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo, để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở T người tốt, có ích cho xã hội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Đối với Lê Hồng V tham gia đánh tích cực, bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình gây ra nhưng do hám lợi bất chính nên phạm tội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách mạng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần xử bị cáo mức hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giáo dục như đề nghị của đại diện VKS là đủ nghiêm. Đối với loại hình phạt này còn phải khấu trừ thu nhập nhưng xét bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo, để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở T người tốt, có ích cho xã hội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Đối với Nguyễn Hữu H tham gia đánh tích cực, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình gây ra nhưng do hám lợi bất chính nên phạm tội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách mạng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần xử bị cáo mức hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giáo dục như đề nghị của đại diện VKS là đủ nghiêm. Đối với loại hình phạt này còn phải khấu trừ thu nhập nhưng xét bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo, để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở T người tốt, có ích cho xã hội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Đối với Trần Khắc H tham gia đánh tích cực, bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình gây ra nhưng do hám lợi bất chính nên phạm tội cần xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục bị cáo trở T người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần xử bị cáo mức hình phạt cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giáo dục như đề nghị của đại diện VKS là đủ nghiêm. Đối với loại hình phạt này còn phải khấu trừ thu nhập nhưng xét bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo, để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở T người tốt, có ích cho xã hội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[3] Về tang vật vụ án: Đối với 01 bộ bài tu lơ khơ 52 quân thu giữ tại chiếu bạc được xác định phương tiện phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 9.760.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[4] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hữu H, Lê Hồng V, Lê Văn T và Trần Khắc H phạm tội " Đánh bạc".

Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1 điều 51, điều 36 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 3 ngày tạm giữ bằng 9 ngày cải tạo không giam giữ, nay phải chấp hành tiếp 14 tháng 21 ngày (mười bốn tháng hai mươi mốt ngày) cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Lê Văn T cho UBND xã Đồng Văn , huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS xử phạt: Bị cáo Lê Hồng V 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 3 ngày tạm giữ bằng 9 ngày cải tạo không giam giữ, nay phải chấp hành tiếp 14 tháng 21 ngày (mười bốn tháng hai mươi mốt ngày) cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Lê Hồng V cho UBND xã Nghi Kiều, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 3 ngày tạm giữ bằng 9 ngày cải tạo không giam giữ, nay phải chấp hành tiếp 11 tháng 21 ngày (mười một tháng hai mươi mốt ngày) cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Hữu H cho UBND xã Đồng Văn , huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS xử phạt: Bị cáo Trần Khắc H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ nhưng được trừ 3 ngày tạm giữ bằng 9 ngày cải tạo không giam giữ, nay phải chấp hành tiếp 11 tháng 21 ngày (mười một tháng hai mươi mốt ngày) cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Trần Khắc H cho UBND xã Đồng Văn , huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tu lơ khơ 52 quân hiện có tại chi cục thi hành án dân sự Thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 2021/71 ngày 03/9/2020.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 9.760.000 đồng hiện có tại Kho bạc Nhà nước Nghệ An theo giấy nộp tiền số 07102000260223 ngày 15/10/2020.

Về án phí: Căn cứ điều 136 BLTTHS; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí xử: buộc Nguyễn Hữu H, Lê Hồng V, Lê Văn T và Trần Khắc H mỗi bị cáo phải  chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 609/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:609/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về