Bản án 609/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 609/2019/HS-ST NGÀY 26/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở TAND Thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 610/2019/TLST-HS ngày 06/12/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 605/2019/QĐXXST-HS ngày 10/12/2019 đối với bị cáo:

- Thái Thị D, sinh năm 1990 tại tỉnh Nghệ An. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm Phúc Điền 2, xã H, huyện N, tỉnh Y. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Thái Viết T và bà Thái Thị A; Có chồng: Đinh Văn T; Tiền án: Ngày 27/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù về tội “ Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16/09/2019, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, có mặt;

- Bị hại: Anh Lê Quang C, sinh năm 1992 và chị Đỗ Thị Hoài T, sinh năm 1992.

Cùng trú: tổ 10, ấp Vong Đức 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, vắng mặt;

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Đình Văn T, sinh năm 1992 và ông Đinh Văn T, sinh năm 1991. Cùng trú: Xóm Phúc Điền 2, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thái Thị D và chồng là Đình Văn T có quen biết và ở nhờ tại nhà vợ chồng anh Lê Quang C và chị Đỗ Thị Hoài T tại tổ 10, ấp Long Đức 1, xã Tam Phước, thành phố Biên Hòa. Khoảng 11 giờ ngày 09/11/2018 vợ chồng anh C, chị T và anh tăng đi làm nên anh C giao chìa khóa nhà và nhờ D trông nhà. D đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên D đã đi vào phòng ngủ của vợ chồng anh C, chị T và mở tủ lấy trộm số tiền 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng). Sau đó, D gọi điện thoại cho anh Tăng về và nói dối là đưa D về quê chữa bệnh, do không biết việc D trộm cắp tài sản của vợ chồng anh C, chị T nên T đồng ý và cùng D đón xe khách về quê ở xóm Phúc Điền, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đến khảng 17h40 phút cùng ngày, vợ chồng anh C, chị T đi làm về phát hiện bị mất tiền nên anh C đã gọi điện thoại cho anh T hỏi sự việc và anh tăng hỏi chị D thì D thừa nhận đã lấy trộm số tiền 120.000.000đ( một trăm hai mươi triệu đồng) của anh Cường và chị Thương. Ngày 12/11/2018, D nhờ ông Đinh Văn Đ, ngụ tại xóm Phúc Điền 2, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ( ông Đ là anh ruột của anh T) chuyển trả cho anh C 90.000.000đ(chín mươi triệu đồng) vào tài khoản ngân hàng cảu anh C.

Tại cáo trạng số 637/CT/VKSBH-HS, ngày 29/11/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Thái Thị D về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa bị cáo trình bày: Bị cáo đồng ý với bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố và không trình bày gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Thái Thị D về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu vì đã bị xừ phạt về hành vi “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý. Tuy nhiên trong quá trình làm việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về dân sự: Buộc bị cáo bồi thường số tiền còn lại là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) cho anh C và chị T.

Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Thái Thị D từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Đối với anh Đinh Văn T qua quá trình làm việc, anh Tăng không biết bị cáo D trộm cắp tiền của anh C và chị T nên không có cơ sở xử lý. Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh: Ngày 09/11/2018 tại nhà anh Lê Quang C và chị Đỗ Thị Hoài T, bị cáo Thái Thị D đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh C và chị T số tiền 120.000.000đ ( một trăm hai mươi triệu đồng) là có thật. Hành vi phạm tội của bị cáo có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Thái Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3 ] Xét về tình tiết tăng nặng thì thấy bị cáo Thái Thị D đã có 01 tiền án về tội “ Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi “ Trộm cắp tài sản” với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại với số tiền là 90.000.000đ ( chín mươi triệu đồng) nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo và giáo dục các bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5] Về dân sự: Buộc bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường cho anh Lê Quang C và chị Đỗ Thị Hoài T số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

[6] Xét đề nghị của đại diện VKSND thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố bị cáo: Thái Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Thái Thị D 02 (hai) năm 06(sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2019.

2. Căn cứ các Điều 46 và 48 của Bộ luật hình sự; Các điều 584, 585 và 589 của Bộ luật dân sự năm 2015:

- Buộc bị cáo Thái Thị D phải bồi thường cho anh Lê Quang C và chị Đỗ Thị Hoài T số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

- Kể từ khi người yêu cầu có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo D chưa thanh toán số tiền nêu trên thì bị cáo D còn phải chịu theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 609/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:609/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về