Bản án 607/2020/HS-PT ngày 22/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 607/2020/HS-PT NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/12/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 326/2020/TLPT-HS ngày 28/4/2020 do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

* Bị cáo có kháng cáo:

Lê Văn T. Tên gọi khác: Không; sinh ngày 15/6/1972; tại Nghệ An.

Nơi ĐKNKTT: Xóm 7B, xã H, huyện H, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/12; con ông: Lê Văn P, tên gọi khác Lê Văn B và bà: Phạm Thị C, tên gọi khác Phạm Thị B1; (đều đã chết); anh chị em ruột có 08 người; vợ: Phạm Thị M, có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27/4/1999 bị TAND tỉnh Nghệ An xử phạt 16 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 04/01/2011; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Mai Sỹ L, Luật sư Văn phòng Luật sư Q và Công sự , thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 8 năm 2019, bị cáo Lê Văn T có quen biết 1 người đàn ông người Lào không rõ họ, tên, địa chỉ cùng bàn nhau việc mua bán ma túy. Trước ngày bị bắt khoảng 1 tuần thì hai người có điện thoại cho nhau, T đặt mua 2 bánh heroin và 1 cân ma túy đá giá 300.000.000đ nhưng do không đủ tiền nên T xin nợ 100.000.000đ và được người Lào đồng ý. Ngày 26/8/2019 người Lào thông báo cho bị cáo T đã có hàng và hẹn ngày lên xã T, huyện Q để giao nhận hàng; khoảng 20 giờ ngày 28/8/2019 T điều khiển xe máy BKS 37N1-750.76 đi từ nhà ở Hưng N lên huyện Q, đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/8/2019 hai bên giao nhận hàng, trả tiền như đã thỏa thuận ở xã T; bị cáo T kiểm tra túi nilon trong có 2 bánh heroin, 1 cân ma túy đá và trả 200.000.000đ bỏ hàng vào cốp xe máy đi về. Khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày khi T điều khiển xe máy đến địa phận xã N, huyện N thì bị Công an tỉnh Nghệ An kiểm tra, thu giữ vật chứng. Quá trình điều tra bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện.

Tại Bản Kết luận giám định số 1232/KL - PC09 (MT) ngày 04/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

- Hai mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lê Văn T gửi đến giám định là ma túy loại heroin có tổng khối lượng: 696,36gam.

- Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Văn T gửi tới giám định là ma túy loại Methaphetamine có khối lượng là 988,83gam.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sư sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm h khoản 4 điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn T tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo T để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/02/2020 bị cáo Lê Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, nhưng với mức hình phạt tử hình đối với bị cáo là quá nghiêm khắc vì bị cáo khai báo thành khẩn, bố mẹ bị cáo là người có công và bị cáo là người thờ cúng liệt sỹ, năm 2018 bị cáo có công giúp Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An phát hiện đối tượng Nguyễn Viết K và Nguyễn Bá T1 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo có công cứu giúp người đuối nước, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật; tại cấp phúc thẩm tuy có thêm tình tiết gì mới là bị cáo có công tố giác tội phạm và cứu giúp người bị đuối nước, nhưng với tình tiết này không đáng kể so với khối lượng chất ma túy bị cáo phạm tội, nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Mai Sỹ L bào chữa cho bị cáo Lê Văn T trình bày bài bào chữa: Không tranh luận gì về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như khai báo thành khẩn vào tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công; tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là có công tố giác tội phạm, cứu giúp người bị đuối nước và phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, bị cáo là người duy nhất thờ cúng liệt sỹ để chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đặc biệt là biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 28/8/2019 bị cáo mang theo 200.000.000đ từ nhà ở huyện H lên huyện Quế Phong mua 02 bánh Heroin và 01 kg ma túy đá về nhằm mục đích bán để kiếm lời, khoảng 23 giờ 45 phút khi bị cáo vận chuyển ma túy đến địa phận xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An thì bị phát hiện, bắt giữ người cùng tang vật. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết các bị cáo về tội danh trên theo Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người; ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Khi bắt quả tang Lê Văn T, cơ quan điều tra thu giữ 02 bánh Heroin có tổng khối lượng là 696,19 gam và 01 túi Methamphetamine có khối lượng là 988,83 gam. Vì vậy, cấp sơ thẩm đã quy kết, xét xử bị cáo theo điểm h khoản 4 điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn T, Hội đồng xét xử thấy: Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất rất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng khối lượng ma tuý bị cáo mua bán; đã xem xét đến các tình tiết nặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thể hiện ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bố mẹ bị cáo là người có công được tặng thưởng huy chương kháng chiến, bị cáo thờ cúng liệt sĩ là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án tử hình là có căn cứ, phù hợp với pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm tuy bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới là bị cáo có công tố giác tội phạm được Phòng cảnh sát cơ động, Công an tỉnh Nghệ An xác nhận tại công văn số 217/CV-PK02, ngày 06/3/2020; bị cáo có công cứu giúp người đuối nước. Tuy nhiên, bản thân bị cáo đã từng bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với mức hình phạt tù, nhưng với mức hình phạt 16 năm tù chưa đủ nghiêm khắc để bị cáo lấy đó làm bài học lại tiếp tục phạm tội. Hơn nữa, với các tình tiết giảm nhẹ mới cũng không đáng kể so với khối lượng chất ma túy mà bị cáo mua bán, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo không có căn cứ chấp nhận; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An;

Áp dụng điểm h khoản 4 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn T tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo có quyền làm đơn gửi Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.

Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 607/2020/HS-PT ngày 22/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:607/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về