Bản án 60/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Tân Phú mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 52/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 06/2021/HSST-QĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Vũ Mạnh H – Tên gọi khác: Đen, sinh năm 1994, tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp T T, xã T S, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Lơ xe; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân L, sinh năm 1957 và Phạm Thị H, sinh năm 1962; vợ: Trần Thu H, sinh năm 1995; con: có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2020 đến nay. Bị cáo có mặt.

2. Nguyễn Quốc V – Tên gọi khác: Bi, sinh năm 1997, tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp P N, xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm bếp; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1972; vợ, con, tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/8/2014, Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội “Cướp giật tài sản”. Đang bị tạm giam trong vụ án khác. Bị cáo có mặt.

3. Trần Quốc H1, sinh năm 1995, tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp N L 2, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Điện lạnh; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thế P, sinh năm 1966 và bà Vũ Thị Lệ C, sinh năm 1967; vợ, con, tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giam từ ngày 04/02/2021 đến nay.

Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Phạm Văn M, sinh năm 1991, nơi cư trú: Ấp T T, xã T S, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Hải T, sinh năm 1997, nơi cư trú: Ấp N L 3, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt);

2. Nguyễn Thị Diễm Q, sinh năm 2002, nơi cư trú: Ấp N L 3, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt);

3. Nguyễn Thị Ngọc Th, sinh năm 1997, nơi cư trú: Ấp X, xã T C, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Mạnh H, Trần Quốc H1, Nguyễn Quốc V và Nguyễn Hải T có quen biết nhau và cùng nghiện ma túy. Ngày 15/9/2020, Vũ Mạnh H có mua 400.000 đồng tiền ma túy của Yên Vũ Tr, sinh năm 1987, ngụ tại: Ấp Phú Lợi, xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Đến tối ngày 20/9/2020, H đến nhà Nguyễn Hải T, sinh năm 1997, ngụ tại: Ấp Ngọc Lâm 3, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chơi và lấy ma túy ra để cùng sử dụng, rồi ngủ qua đêm tại nhà T. Khoảng 18 giờ, ngày 21/9/2020, H gọi điện cho V nói V chạy xe mô tô xuống nhà T để cho H mượn xe. V chạy xe xuống nhà T thì H mượn xe đi đến nhà Trường mua 1.200.000 đồng tiền ma túy được chia làm 03 gói ni lông, để trong bao thuốc lá Jet và H đi về uống cà phê tại quán gần chùa P L, xã P X. Khoảng 19 giờ, ngày 21/9/2020, H1 đến nhà T để lấy 300.000 đồng tiền nợ. Sau đó, H1, V và T ngồi nói chuyện với nhau thì T nói với H1 và V xin ma túy về sử dụng. V gọi điện cho H để lấy xe và xin ma túy thì H nói lên quán cà phê gần chùa P L lấy. V nhờ H1 chở lên gặp H. Khi gặp H, H lấy một gói ma túy mua ngày 15/9/2020 chưa sử dụng hết đưa cho V và V cầm ra đưa ma túy cho H1 đi về nhà T trước. Còn V lấy xe đi chở bạn gái tênTh đến nhà T sau. Sau đó, khi V chở bạn gái đến nhà T thì thấy T và H1 đang sử dụng ma túy thì V cùng vào cùng sử dụng. Lúc sau, H gọi điện nói T lên đón mình về nhà T. T đón H về nhà thì H đi vào phòng số 3 của nhà T. Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, lúc 22 giờ 10 phút, ngày 21/9/2020, Công an xã P X đến nhà T kiểm tra. Lo sợ nên H giấu 03 gọi ma túy giấu trong bao thuốc là Jet mua của Trường lên trên thanh ngang cửa phòng nghỉ số 03. Sau đó, công an xã P X đã phát hiện 03 bịch ni lông được giấu trong bao thuốc là Jet chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (được niêm phong, ký hiệu: M1), 01 lượng tinh thể màu trắng nghi là ma túy đang sử dụng còn sót lại được đựng vào 01 gói ni lông (được niêm phong, ký hiệu: M2) và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 nỏ, 01 bình thủy tinh, 01 quẹt ga;

01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đồng; số tiền 7.250.000 đồng, 01 xe mô tô biển số 60B3 – 596.99 và 01 xe mô tô biển số 60B3 – 726.99.

Toàn bộ hồ sơ, tài liệu, mẫu vật thu giữ và các đối tượng được bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú tiến hành trưng cầu giám định mẫu vật được niêm phong, Tại Bản kết luận giám định số: 2275/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M1): Là ma túy, có khối lượng 2,7721 gam, loại Methamphetamine; mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 2,7388 gam.

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (kí hiệu M2): Là ma túy, có khối lượng 0,1627 gam, loại Methamphetamine; mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1471 gam.

Cáo trạng số: 41/CT-VKSTP-ĐN ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố các bị cáo Vũ Mạnh H, Nguyễn Quốc V, Trần Quốc H1, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiêm sat viên trình bày ý kiến luân tôi như sau:

Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý mặt hàng cấm của Nhà nước; Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật nên giữ nguyên quyết định truy tố; cần phải có mức án phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự tuyên xử các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt:

- Vũ Mạnh H từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù.

- Nguyễn Quốc V từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

- Trần Quốc H1 từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong số: 2275/KLGĐ-PC09 là chất cấm lưu hành và 01 nỏ, 01 bình thủy tinh, 01 bật lửa là phương tiện để sử dụng ma túy do không có giá trị sử dụng.

Đối với: Số tiền 7.250.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu ViVo, 01 xe mô tô biển số 60B3 – 596.99, 01 xe mô tô biển số 60B3 – 726.99 là tài sản cá nhân của Vũ Mạnh H, Phạm Văn M, Nguyễn Thị Diễm Q, không liên quan đến vụ án, đã trao trả cho các chủ sở hữu trên.

Đối với Đối với Yên Vũ Tr: Có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Vũ Mạnh H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trường về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không xem xét, xử lý.

Đối với Nguyễn Hải T: Chỉ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, số ma túy thu giữ tại phòng của T là của Vũ Mạnh H, Nguyễn Quốc V, Trần Quốc H1, không liên quan đến T nên chưa đủ căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã lập hồ sơ đề nghị Công an huyện Tân Phú ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Hải T.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nội dung lời khai của những người tham gia tố tụng trong hồ sơ vụ án:

- Lời trình bày ý kiến, tranh luận của các bị cáo: Các bị cáo thừa nhận nội dung của Bản cáo trạng là đúng sự thật, các bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo;

- Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Phạm Văn M: Xe mô tô biển số 60B3 – 596.99 là của anh. Ngày 21/9/2020, anh cho Nguyễn Quốc V mượn xe khoảng 15 – 20 phút để đi chở vợ con nhưng không biết V đi sử dụng ma túy. Hiện anh đã nhận lại xe mô tô và không có ý kiến, yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, các bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1.] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2.] Về trách nhiệm hình sự: [2.1] Xét về hành vi phạm tội:

Ngày 21/9/2020, Vũ Mạnh H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là: 2,7721 gam và 0,1627 gam, tổng cộng 2,9348 gam. Sau đó, Vũ Mạnh H có đưa cho Nguyễn Quốc V và Trần Quốc H1 0,1627 gam ma túy loại Methamphetamine đưa về nhà Nguyễn Hải T, sinh năm 1997, thuộc ấp N L 3, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai để cùng sử dụng; số ma túy còn lại thì H giữ trong người để sử dụng. Đến khoảng 22 giờ 10 phút cùng ngày, Công an xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai kiểm tra hành chính bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi mà các bị cáo đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[2.2] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình để nhận biết được hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chế độ quản lý mặt hàng cấm của Nhà nước mà còn gây tác hại lớn đối với sức khỏe và nhân cách của con người, làm thiệt hại kinh tế của gia đình cũng như xã hội và là một trong những nguyên nhân nảy sinh của các loại tội phạm khác; gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy, buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà các bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo Vũ Mạnh H, Nguyễn Quốc V và Trần Quốc H1 tham gia với vai trò là người thực hành. Tuy nhiên, khối lượng ma túy bị cáo H tàng trữ là lớn nhất và ma túy mà bị cáo V và H1 tàng trữ đều có nguồn gốc của bị cáo H nên bị cáo H phải chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo V và bị cáo H1.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo H và bị cáo H1 có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử cần xem xét mà giảm nhẹ một phần cho mức hình phạt cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[2.5] Về nhân thân: Bị cáo H và bị cáo H1 có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu. Bị cáo V có nhân thân xấu nay tiếp tục phạm tội nên cần phải tuyên phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc hơn.

Tòa án mở phiên tòa công khai xét xử vụ án để xử lý hành vi phạm tội của các bị cáo và để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong số: 2275/KLGĐ-PC09 là chất cấm lưu hành và 01 nỏ, 01 bình thủy tinh, 01 bật lửa là phương tiện để sử dụng ma túy do không có giá trị sử dụng nên cần tịch tiêu hủy là đúng pháp luật.

Đối với: Số tiền 7.250.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu ViVo, 01 xe mô tô biển số 60B3 – 596.99, 01 xe mô tô biển số 60B3 – 726.99 là tài sản cá nhân của Vũ Mạnh H, Phạm Văn M, Nguyễn Thị Diễm Quỳnh, không liên quan đến vụ án đã trao trả cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.

[4] Đối với các vấn đề khác:

Đối với Đối với Yên Vũ Tr: Có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Vũ Mạnh H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trường về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không xem xét, xử lý trong vụ án này.

Đối với Nguyễn Hải T: Chỉ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, số ma túy thu giữ tại phòng của T là của Vũ Mạnh H, Nguyễn Quốc V, Trần Quốc H1, không liên quan đến T nên chưa đủ căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã lập hồ sơ đề nghị Công an huyện Tân Phú ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Hải T là đúng pháp luật.

[5] Về án phí : Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự; áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Mạnh H và bị cáo Trần Quốc H1:

Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Mạnh H, Nguyễn Quốc V, Trần Quốc H1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Bị cáo Vũ Mạnh H 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2020 Bị cáo Nguyễn Quốc V 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính ngày bị cáo chấp hành án hình phạt tù.

Bị cáo Trần Quốc H1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015;

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong số:

2275/KLGĐ-PC09 là chất cấm lưu hành và 01 nỏ, 01 bình thủy tinh, 01 bật lửa là phương tiện để sử dụng ma túy do không có giá trị sử dụng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2021 giữa Công an huyện Tân Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai).

- Về án phí : Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Vũ Mạnh H, Nguyễn Quốc V và Trần Quốc H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 292; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Mạnh có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về