Bản án 60/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU 

BẢN ÁN 60/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2020/HSST ngày 24 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Quốc Q (tên gọi khác: S), sinh năm 1982 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; Nơi cư trú: tổ 42, ấp Gò S, xã L, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Chỗ ở: tổ 42, ấp G, xã L, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Vĩnh P sinh năm 1956 và bà Lê Thị K, sinh năm 1958; Vợ Trần Thị Thu C, sinh năm 1983; Con có 3 người lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2013.

- Tiền án: Ngày 06/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ tuyên phạt mức án 14 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tại bản án số 38/2018/HSST.

- Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 04/9/2020 có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Bà Trần Thị M, sinh 1973; (Có mặt); Nơi cư trú: tổ 20, ấp C, xã L, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1991; Địa chỉ: ấp C, xã L, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, Q đi bộ từ nhà đến chợ L thuộc ấp Cây Cám, xã L, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Q phát hiện 01 xe gắn máy hiệu GUANJUN kiểu xe Dream, biển số 72F9-7553 của chị Trần Thị M đang dựng trước cửa hàng tạp hóa trong chợ, trên xe còn cắm chìa khóa, không có người trông coi nên Q nảy sinh ý định chiếm đoạt. Q đi lại gần xe dùng tay bật chìa khóa, dùng chân đạp cần khởi động máy rồi điều khiển xe chạy về hướng Lồ Ồ. Q chạy được khoảng hơn 02km thì bị người dân truy đuổi nên Q bỏ xe lại trên đường, rồi chạy trốn vào đám mì bên đường. Cơ quan điều tra Công an huyện Đất Đỏ mời Q đến làm việc, Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Tang vật là 01 xe môtô hiệu GUANJUN kiểu xe Dream, SM:150FMG-01544794, SK:CPLL1Y-6000012, biển số 72F9-7553 và 01 giấy đăng ký xe số A 0129898.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số 36/KL-HĐĐG ngày 04/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đất Đỏ kết luận: 01 xe mô tô hiệu GUANJUN kiểu xe Dream, SM:150FMG-01544794, SK:CPLL1Y-6000012, biển số 72F9-7553 có giá trị còn lại là 3.500.000 đồng. Chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị M cơ quan điều tra đã giao trả lại chiếc xe cùng giấy xe cho bà M, bà M không yêu cầu bồi thường gì thêm, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ truy tố bị cáo Bùi Quốc Q về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự xử xử phạt bị cáo mức án từ 8 đến 12 tháng tù.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đất Đỏ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, bị cáo đến chợ L, phát hiện 01 xe gắn máy hiệu GUANJUN kiểu xe Dream, biển số 72F9-7553 của chị Trần Thị M đang dựng trước cửa hàng tạp hóa, trên xe còn cắm chìa khóa, không có người trông coi, nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt. Bị cáo đi lại gần xe dùng tay bật chìa khóa, khởi động máy rồi điều khiển xe chạy đi, bị người dân phát hiện truy đuổi nên bị cáo bỏ xe lại trên đường rồi chạy trốn, sau đó bị Cơ quan điều tra mời làm việc, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Hội đồng xét xử qua tiến hành tranh tụng công khai tại phiên tòa, xét lời khai của bị cáo, lời trình bày của các bị hại, phù hợp với chứng cứ thu thập được như: Biên bản tạm giữ đồ vật tài sản, biên bản định giá tài sản. Bị cáo đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là xe môtô của bị hại, giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm ngàn đồng) đủ căn cứ quy kết bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Khẳng định bản cáo trạng số 56/2020/CT-VKS ngày 22/10/2020 của viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ truy tố bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị phát hiện tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tài sản thiệt hại không lớn và bị hại đã có đơn bãi nại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe mô tô hiệu GUANJUN kiểu xe Dream, SM; 150FMG-01544794, SK: CPLL1Y-6000012, biển số 72F9-7553 và 01 giấy đăng ký xe số A 0129898 mang tên Tăng Văn D là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị , bà M mua chưa sang tên. Cơ quan điều tra đã giao trả lại tai sản cho bà M, bà M không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự.

1/- Tuyên bố: Bị cáo Bùi Quốc Q (Tên gọi khác: S) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Quốc Q (tên gọi khác: S) 08 (Tám) tháng tù thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt (Ngày 04/9/2020)

2/- Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

3/- Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

4/- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5/- Trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 26/11/2020) bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:60/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về