TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 60/2020/HS-PT NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm, thụ lý số 19/2020/TLPT-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020, do có kháng cáo của bị cáo Trịnh Văn T và bị cáo Trần Văn D đối với bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 16/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Trịnh Văn T, sinh ngày 01/5/1982; tên gọi khác: Không có; Nơi đăng ký HKTT: E2P2, khu tập thể VM, phường VM, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Trịnh Văn B và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Hoàng Thị L (đã ly hôn), có 02 con chung, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/09/2018, đến ngày 19/10/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
2. Trần Văn D, sinh ngày 16/9/1972; tên gọi khác: Không có; Nơi đăng ký HKTT: Xóm C, xã HC, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Trần Văn T1 và bà Nguyễn Thị K; có vợ là Trương Thị D1, sinh năm 1974, có 03 con (con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/10/2018, đến ngày 27/01/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Trong vụ án này còn có các bị cáo Nguyễn Văn H1, Nguyễn Thị Thu T2, Trần Hữu M, Nguyễn Mạnh C, Đinh Trọng H2, Dương Thị H3 có đơn kháng 1 cáo. Trước khi mở phiên tòa các bị cáo H1, T2, M, C, H2 và bị cáo H3 đã rút toàn bộ kháng cáo; các bị cáo không bị kháng nghị, vắng mặt do Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ 00’ ngày 12/09/2018, tại quầy cầm đồ TH thuộc tổ 12, thị trấn TC, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, Cơ quan điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đinh Trọng H2 (sinh năm 1985, trú quán tổ 16, thị trấn TC, huyện ĐH); Đặng Văn T (sinh năm 1987, trú quán xóm BN, xã TL, huyện ĐH); Trịnh Văn T (sinh năm 1982, trú tại E2P2, khu tập thể VM, phường VM, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định); Ngô Việt D2 (sinh năm 1994, trú quán tổ 12, thị trấn TC, huyện ĐH); Trần Hữu M (sinh năm 1995, trú quán tổ 07, thị trấn TC, huyện ĐH); Hoàng Tú L1 (sinh năm 1990, trú quán tổ 8, thị trấn TC, huyện ĐH); Phạm Văn P (sinh năm 1989, trú quán tổ 09, thị trấn TC, huyện ĐH) về hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh ba cây sát phạt nhau bằng tiền. Tang vật thu giữ tại nơi các đối tượng đang đánh bạc là 36 quân bài tú lơ khơ dùng vào việc đánh bạc và 1.900.000đ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam dùng vào việc đánh bạc. Thu giữ của Trần Hữu M 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6, màu xám; thu giữ của Đinh Trọng H2 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone; thu giữ của Trịnh Văn T 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG màu đen rồi đưa các đối tượng cùng vật chứng về cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ để điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 13/9/2018, Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra máy điện thoại thu giữ của Trần Hữu M, Đinh Trọng H2, Trịnh Văn T. Kết quả xác định:
Đối với Trần Hữu M, kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu xám đen, có số Imei: 3592630611648416, lắp sim số thuê bao 0971. 589.222 có nhiều tin nhắn liên quan đến việc mua bán số lô, số đề với nhiều đối tượng khác nhau.
Đối với Đinh Trọng H2, kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu X phone x1250, màu đen, có số Imei: 359867078569554, lắp sim số thuê bao 0977.090.888 không có tin nhắn liên quan đến mua bán số lô, số đề.
Đối với Trịnh Văn T, kiểm tra chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG màu đen có lắp 02 số thuê bao, số thuê bao 1 0975546.528; số thuê bao 2: 0944.992.666. Kiểm tra phần tin nhắn của số thuê bao 0944. 992.666 có nhiều tin nhắn liên quan đến việc mua bán số lô, số đề với Trần Hữu M (ghi tên danh bạ là “Em. Hiêp” và Đinh Trọng H2.
Tất cả các đối tượng đều khai nhận những chiếc điện thoại trên là của bản thân các đối tượng đã sử dụng từ lâu.
Tại cơ quan điều tra, Trần Hữu M khai: M nhận làm thư ký ghi số lô, số đề của nhiều người khác nhau rồi chuyển cho Nguyễn Văn H1, sinh năm 1976, trú quán xóm CM, xã TT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên để hưởng phần trăm chênh lệch. Giữa M và H1 thỏa thuận khi M bán số lô cho khách với giá 22.500 đến 23.000đ/01điểm lô thì sẽ bán lại cho H1 với giá 22.000đ/ 01 điểm lô; với số đề thì M bán cho khách với giá 1.000đ thì bán lại cho H1 với tỷ lệ 71%/1.000đ. M bắt đầu bán số lô, số đề cho khách rồi đến cuối giờ chiều hàng ngày tổng hợp lại và chuyển qua tin nhắn điện thoại cho H1 trước giờ mở thưởng của xổ số miền Bắc từ khoảng tháng 6 năm 2018, hàng ngày đến ngày 12/9/2018 thì bị phát hiện, bắt giữ.
Căn cứ lời khai của Trần Hữu M, hồi 19 giờ 46 phút ngày 13/9/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người, phương tiện của Nguyễn Văn H1 (sinh năm 1976, trú quán xóm CM, xã TK, huyện PB) kết quả thu giữ tại túi quần H1 đang mặc số tiền 3.400.000đ, 01 điện thoại Samsung màu vàng, 01 điện thoại Sam sung màu trắng (thu giữ tại hộc để đồ trên xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn H1), qua kiểm tra thấy trong máy điện thoại của H1 có nhiều tin nhắn liên quan đến hoạt động mua bán số lô, số đề với nhiều người khác nhau.
Quá trình điều tra đã xác định và làm rõ được M bán số lô, số đề trực tiếp cho Dương Thị H3, Trịnh Văn T, Đinh Trọng H2 rồi chuyển cho H1 để hưởng phần trăm chênh lệch.
Nguyễn Văn H1 đã trực tiếp bán số lô, số đề cho Nguyễn Mạnh C, Trần Văn D, Nguyễn Thị Thu T2 qua số điện thoại 0978150263. H1 xác định sim điện thoại này là của H1, hàng ngày sử dụng vào việc mua bán số lô, số đề.
Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận như sau:
Từ tháng 3 năm 2018, Nguyễn Văn H1 đã đứng ra làm chủ đề tổ chức bán số lô, số đề cho nhiều người và nhận bảng lô, đề của các thư ký để kiếm lời, hàng ngày các thư ký có trách nhiệm mua bán số lô, số đề với các con bạc trên địa bàn xã TT và các xã lân cận thuộc huyện PB và huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên rồi chuyển cho H1.
Việc thực hiện trao đổi mua bán số lô, số đề của H1 với các thư ký và các con bạc được thực hiện bằng hình thức nhắn tin cho nhau vào máy điện thoại.
Đối với các thư ký cũng như những người đánh bạc trực tiếp bằng cách mua số lô, số đề trực tiếp của H1 thì đều được H1 bán với giá tiền 22.500đ/01 điểm lô, số đề là 71%/ 1000đ. (tức là cứ 10.000đ, H1 sẽ thu 7.100đ).
Khoảng tháng 8 năm 2018, có một người đàn ông H1 không biết tên, tuổi, địa chỉ gọi điện cho H1 hỏi H1 có mua phần mềm tính toán số lô, số đề hay không thì người đó sẽ bán cho H1, H1 bảo có và đã gặp người đàn ông đó ở quán cà phê HT thuộc tổ 15, phường HVT, thành phố TN. Tại đây, người đó đã cài đặt phần mềm tính toán đánh bạc vào máy điện thoại SamsungGalaxy j7 Prime lắp sim số thuê bao 0978150263 của H1 để phục vụ cho việc tự động trả lời tin nhắn, tính toán số tiền thắng thua từng ngày.
Về hình thức đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề được H1 và các thư ký ghi đề cùng những người chơi thoả thuận theo quy ước như sau:
Đánh bạc bằng hình thức số đề là việc người chơi bỏ tiền ra ghi mua số đề. Người chơi lựa chọn đặt một khoản tiền vào bất kỳ số nào gồm 2 chữ số trong dãy số từ 00 đến 99. Nếu số đề người chơi ghi mua trùng với 2 số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết Miền Bắc phát hành trong ngày thì người chơi thắng bạc và được H1 trả số tiền gấp 70 lần số tiền đã bỏ ra ghi mua số đề (trả qua thư ký đề). Nếu số đề người chơi ghi mua không trùng với 2 số cuối của giải đặc biệt thì người chơi thua và mất số tiền đã mua số đề.
Đánh bạc bằng hình thức số lô là việc người chơi đặt một khoản tiền vào bất kỳ số nào gồm 2 chữ số trong dãy số từ 00 đến 99, nhưng khoản tiền đặt chơi số lô được quy ước ghi thành điểm, mỗi điểm có trị giá 22.000đ đến 23.000 đồng. Nếu số lô người chơi ghi mua trùng với 2 số cuối của bất kỳ số nào trong 27 số giải thưởng của xổ số kiến thiết Miền Bắc phát hành trong ngày thì người chơi thắng bạc và được H1 trả số tiền 80.000 đồng cho 1 điểm lô (trả qua thư ký). Khác với số đề, đánh bạc bằng hình thức số lô được tính trả thưởng gấp nhiều lần tương ứng với số lần trùng trong cả 27 số giải thưởng của xổ số kiến thiết Miền Bắc với số của người chơi ghi mua. Nếu số lô người chơi ghi mua không trùng với số nào trong 27 số giải thưởng của xổ số kiến thiết Miền Bắc thì người chơi thua và mất số tiền đã mua số lô.
Đánh bạc bằng hình thức lô xiên là việc người chơi bỏ tiền ra mua 02 cặp chữ số (xiên 2) hoặc 03 cặp chữ số (xiên 3) hoặc 04 cặp chữ số (xiên 4). Đến cuối ngày sẽ đọ kết quả với 02 số cuối của 27 giải xổ số Miền Bắc. Nếu 02 cặp số khách đã mua trùng với 02 số cuối của 02/27 giải thì khách trúng thưởng và H1 phải trả thưởng cho khách gấp 10 lần số tiền khách bỏ ra mua. Nếu 03 cặp số khách đã mua trùng với 03 số cuối của 03/27 giải thì khách trúng thưởng và H1 phải trả thưởng cho khách gấp 40 lần số tiền khách bỏ ra mua (đều trả thưởng qua thư ký). Nếu số lô xiên của người đã mua không trùng với 01 trong số 27 giải của xổ số Miền Bắc thì người chơi thua và mất số tiền đã mua số lô xiên.
Đánh bạc bằng hình thức số đề ba càng là việc người chơi chọn mua 03 chữ số (hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị). Đến cuối ngày sẽ đọ kết quả với 03 chữ số cuối của giải đặc biệt xổ số Miền Bắc (hàng trăm, hàng chục và hàng đơn vị). Nếu 03 chữ số khách đã mua trùng với 03 chữ số cuối của giải đặc biệt xổ số Miền Bắc mở thưởng ngày hôm đó thì khách trúng thưởng và H1 phải trả thưởng cho khách gấp 350 lần số tiền khách bỏ ra mua (trả qua thư ký). Nếu 03 chữ số của người mua không trùng với 03 chữ số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết Miền Bắc thì người chơi thua và mất số tiền đã bỏ ra mua.
Đánh bạc bằng hình thức “nhất to” là việc người chơi bỏ tiền ra ghi mua số đề. Người chơi lựa chọn đặt một khoản tiền vào bất kỳ số nào gồm 2 chữ số trong dãy số từ 00 đến 99. Nếu số đề người chơi ghi mua trùng với 2 số cuối của giải nhất xổ số kiến thiết Miền Bắc phát hành trong ngày thì người chơi thắng bạc và được H1 trả số tiền gấp 70 lần số tiền đã bỏ ra ghi mua số đề (trả qua thư ký đề). Nếu số đề người chơi ghi mua không trùng với 2 số cuối của giải nhất thì người chơi thua và mất số tiền đã mua số đề.
Đối với các thư ký, H1 trả theo phần trăm doanh số bán được trong ngày, cụ thể: Số lô, H1 thu thu mỗi điểm thấp hơn từ 01 đến 02 nghìn đồng so với giá thư ký bán cho khách chơi; số đề, lô xiên, ba càng, H1 thu 71% (ví dụ tổng số lô, đề, ba càng hết 10.000đ thì H1 chỉ thu 7.100đ). Trong khoảng thời gian từ ngày 25/6/2018 đến ngày 11/9/2018, M đã bán số lô, số đề cho nhiều người rồi tổng hợp lại chuyển cho H1 qua tin nhắn điện thoại để hưởng phần trăm chênh lệch.
Đối với Trịnh Văn T: T sử dụng các số điện thoại của T là 0944.992.666 và 01668.600.620 nhắn tin đến số thuê bao 0971.589.222 của Trần Hữu M để mua bán số lô, số đề, cụ thể: Ngày 19/8/2018 là 69.000.000đ; ngày 20/8/2018 là 133.000.000đ; ngày 21/8/2018 là 138.750.000đ; ngày 22/8/2018 là 77.000.000đ; ngày 23/8/2018 là 111.250.000đ; ngày 24/8/2018 là 94.250.000đ; ngày 25/8/2018 là 78.125.000đ; ngày 26/8/2018 là 85.625.000đ; ngày 27/8/2018 là 93.375.000đ; ngày 28/8/2018 là 94.125.000đ; ngày 29/8/2018 là 95.875.000đ; ngày 30/8/2018 là 73.625.000đ; ngày 31/8/2018 là 123.625.000đ; ngày 01/9/2018 là 157.687.500đ; ngày 02/9/2018 là 57.375.000đ; ngày 03/9/2018 là 123.125.000đ; ngày 04/9/2018 là 72.625.000đ; ngày 05/9/2018 là 165.500.000đ; ngày 06/9/2018 là 73.500.000đ; ngày 07/9/2018 là 92.250.000đ; ngày 08/9/2018 là 97.250.000đ; ngày 09/9/2018 là 86.000.000đ; ngày 10/9/2018 là 100.125.000đ; ngày 11/9/2018 là 84.250.000đ. Tổng số tiền T đã thu lời được 42.320.000đ (Bốn mươi hai triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng).
Trần Văn D đánh bạc với Nguyễn Văn H1 ngày 13/9/2018, cụ thể như sau: H1 dùng số điện thoại 0978.150.263 để mua bán số lô, số đề với Trần Văn D qua số điện thoại của D cho H1 để liên lạc với D là 01692896401 được H1 lưu trong danh bạ là “Doan 191919”. Trong ngày 13/9/2018, H1 và D mua bán các số lô, số đề như sau:
Số đề hai số gồm các số: 88, 00; 30 mỗi số 50.000đ; 11, 55; 33 mỗi số x 100.000đ; các số 11; 55 x 300.000đ; 11; 55; 83 x 50.000đ; số 59 x 50.000đ; 00, 22, 33, 88 mỗi số x 50.000đ, số 99, 92, 55 mỗi số x 100.000đ = 1.750.000đ D mua số đề bộ đầu gồm: Đầu 8 gồm 10 số từ 80 đến 89 mỗi số 5.000đ = 50.000đ; Đầu 0 gồm 10 số từ 00 đến 09 mỗi số 5.000đ = 50.000đ; Đuôi 0 gồm các số từ 00 đến 90 mỗi số 5.000đ = 50.000đ; Đầu 2 gồm 10 số từ 20 đến 29 mỗi số 2.500đ = 25.000đ; Đuôi 2 gồm 10 số từ 02 đến 92 mỗi số 2.500đ = 25.000đ; Đầu 8 gồm 10 số từ 80 đến 89 mỗi số 20.000đ = 200.000đ; Đuôi 8 gồm 10 số từ 08 đến 98 mỗi số 20.000đ = 200.000đ; Tổng số tiền đánh bạc dưới hình thức mua các đầu số là: 600.000đ.
D mua số lô các số gồm: 17, 71, 09, 90, 15, 51, 12, 21; 28; 82 mỗi số x 25 điểm = 250 điểm x 22.000đ/ điểm = 5. 500.000đ; Số 13; 17; 22; 38 mỗi số 10 điểm = 40 điểm x 22.000đ/ điểm = 880.000đ; Số lô 55; 22; 11 mỗi số 50 điểm =150 điểm x 22.000đ/ điểm = 3.300.000đ; Số lô 19; 91 mỗi số 10 điểm = 20 điểm x 22.000đ/ điểm = 440.000đ; Số lô 18; 81 mỗi số 25 điểm = 50 điểm x 22.000đ/ điểm = 1.100.000đ; Số lô 71 x 150 điểm, số lô 17 x 50 điểm = 200 điểm x 22.000đ/ điểm = 4.400.000đ. Tổng số điểm lô D mua của H1 là 710 điểm x 22.000đ/ điểm = 15.620.000đ.
D mua của H1 các số đề và nhất to (tức giữa các bị cáo ngầm quy định với nhau sẽ mua số xuất hiện ở giải đặc biệt và giải nhất) nếu có các con số D đã mua thì sẽ thắng (trúng đề) được H1 trả thưởng tương ứng là 70.000đ/1.000đ đã mua. Các số như sau:
Số nhất to: 090; 121; 020; 050; 151; 676 mỗi số x 50.000đ ( tương ứng với các số 09; 90; 12; 21; 02; 20; 05; 50; 15; 51; 67; 76 mỗi số x 25.000đ) = 300.000đ.
Số đề + nhất to 646, 050, 090, 787, 272, 030, 171, 181 mỗi số 100.000đ (tương ứng với các số 64; 46; 05; 50; 09; 90; 78; 87; 27; 72; 03; 30; 17; 71; 18; 81) trong đó chia ra giải đặc biệt x 50.000đ, giải nhất 50.000đ) = 1.600.000đ.
Các số đề + nhất to 050; 101; 161; 787; 676; 020; 030; 131; 272; 292; 090; 121 mỗi số 300.000đ (tương ứng với các số 05; 50; 10; 01; 16; 61; 78; 87; 67; 76; 02; 20; 03; 30; 13; 31; 27; 72; 29; 92; 09; 90; 12; 21) trong đó chia ra giải đặc biệt x 150.000đ, giải nhất 150.000đ = 3.600.000đ.
Các số đề + nhất to 121; 313; 202; 585; 161; 505; 282; 383; 909; 373 mỗi số 50.000đ (tương ứng với các số 12; 21; 31; 13; 20; 02; 58; 85; 16; 61; 50; 05; 28; 82; 38; 83; 90; 09; 37; 73) = 500.000đ; Số đề + nhất to 090 x 100.000đ ( tương ứng các số 09; 90) = 100.000đ. Tổng số tiền mua số đề + nhất to = 6.100.000đ.
D mua số đề 3 số gồm: 232; 010; 575 mỗi số 50.000đ = 150.000đ.
Các số 080; 585; 383; 272; 131; 202; 585; 373; 595; 898 mỗi số 50.000đ =. 500.000đ; Các số 535; 989; 363; 242; 020; 121 mỗi số 100.000đ = 600.000; Số 868 x 200.000đ.
Tổng số tiền D mua số đề ba số của H1 là 150.000 + 500.000 + 600.000 + 200.000đ = 1.450.000đ.
Tổng số tiền D mua bán số lô, số đề với H1 ngày 13/9/2018 là 25.520.000đ.
Đọ kết quả sổ xố Miền Bắc mở thưởng ngày 13/9/2018 thì D đã trúng thưởng số đề 62 (trong số 10 số của đuôi 2) ở giải đặc biệt được 2.500đ x 70.000đ/ 01 nghìn = 175.000đ. Trúng số lô 12 ở giải tư x 25 điểm, 82 ở giải năm x 25 điểm; số lô 55 ở giải sáu được 50 điểm, tổng số điểm lô D trúng thưởng là 100 điểm x 80.000/ điểm = 8.000.000đ.
Như vậy, số tiền đánh bạc trong ngày 13/9/2018 của D là (25.520.000đ + 175.000 + 8.000.000đ) = 33.695.000đ nhưng giữa D và H1 chưa thanh toán tiền với nhau.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn H1, Trần Hữu M, Trịnh Văn T, Đinh Trọng H2, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thị Thu T2, Dương Thị H3 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo M, H1 đều thừa nhận quá trình thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với nhiều người khác nhau thì M đều bán lại cho H1 để hưởng chênh lệch. Đối với Nguyễn Thị Thu T2, quá trình giúp cho H1 mua bán số lô, số đề thì T2 không tính chênh lệch để hưởng phần trăm từ việc chuyển số lô, số đề cho H1, nhưng đã được H1 cho số tiền là 6.000.000đ Đối với bị cáo Trần Văn D, quá trình điều tra có lúc bị cáo không thừa nhận hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với bị cáo H1, nhưng sau đó bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo H1 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản án sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 16/12/2019, Tòa án nhân dân huyện Đông Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố: Các bị cáo Trịnh Văn T, Trần Văn D phạm tội “Đánh bạc”.
Về hình phạt áp dụng:
- Điểm b khoản 2, 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt: Trịnh Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/9/2018 đến ngày 19/10/2018. Phạt bổ sung bị cáo 10 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.
- Khoản 1, 3 Điều 321; điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Trần Văn D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2018 đến ngày 27/01/2019. Phạt bổ sung bị cáo 10 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng; truy thu số tiền thu lợi bất chính, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/12/2019 bị cáo Trần Văn D kháng cáo kêu oan; ngày 09/4/2020 bị cáo D có đơn xin cải tạo tại địa phương.
Ngày 25/12/2019 bị cáo Nguyễn Văn H1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; xin hưởng án treo; đề nghị không truy thu số tiền thu lời bất chính.
Ngày 18/12/2019 bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 kháng cáo xin hưởng án treo.
Ngày 30/12/2019 bị cáo Đinh Trọng H2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 30/12/2019 bị cáo Dương Thị H3 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 30/12/2019 bị cáo Trần Hữu M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 25/12/2019 bị cáo Trịnh Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 25/12/2019 bị cáo Nguyễn Mạnh C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Ngày 13/02/2020, các bị cáo Đinh Trọng H2, Dương Thị H3, Trần Hữu M đã rút toàn bộ kháng cáo; Ngày 27/02/2020 bị cáo Nguyễn Mạnh C rút kháng cáo; ngày 03/3/2020 bị cáo Nguyễn Văn H1 rút toàn bộ nội dung kháng cáo; ngày 28/4/2020 bị cáo Nguyễn Thị Thu T2 rút kháng cáo. Tòa án đã ra thông báo về việc rút kháng cáo theo quy định.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trịnh Văn T xin rút toàn bộ kháng cáo. Bị cáo Trần Văn D khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo xin được cải tạo tại địa phương.
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Đối với bị cáo Trịnh Văn T: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo rút toàn bộ kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 342; 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trịnh Văn T.
Đối với kháng cáo của bị cáo Trần Văn D: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đã nộp khoản tiền phạt bổ sung và tiền án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm, bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa phương, được chính quyền địa phương xác nhận, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, bị cáo chỉ tham gia đánh bạc với bị cáo H1 một lần vào ngày 13/9/2018, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, vì vậy có căn cứ áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo D.
Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo Trần Văn D được hưởng án treo.
Bị cáo D không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng, bị cáo D đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm. Trước khi mở phiên tòa, các bị cáo Trần Hữu M, Đinh Trọng H2, Dương Thị H3, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Văn H1 và Nguyễn Thị Thu T2 đã có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo, Tòa án đã ra thông báo về việc rút kháng cáo theo quy định.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trịnh Văn T rút toàn bộ kháng cáo, xét việc rút kháng cáo của bị cáo T là tự nguyện; Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 342; 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trịnh Văn T.
[2]. Căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:
Trong khoảng thời gian từ ngày 25/6/2018 đến ngày 13/9/2018, Nguyễn Văn H1 đã đứng ra làm chủ đề và tổ chức hoạt động đánh bạc trái phép dưới hình thức mua bán số lô, số đề trên địa bàn một số xã thuộc huyện PB, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên nhằm thu lời bất chính. Để thực hiện hành vi phạm tội của mình, H1 sử dụng điện thoại di động lắp sim số 0978150263 có cài đặt phần mềm tự động tính toán kết quả thắng, thua để nhận tin nhắn của Trần Hữu M, Nguyễn Thị Thu T2 và một số đối tượng khác làm thư ký ghi số lô, số đề cho mình. Ngoài ra, vào ngày 13/9/2018 H1 còn nhận trực tiếp số lô số đề từ Trần Văn D, Nguyễn Mạnh C.
Bị cáo Trần Văn D: Ngày 13/9/2018 đã đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô đề thông qua việc sử dụng tin nhắn điện thoại với Nguyễn Văn H1, tổng số tiền là 33.695.000đ nhưng D chưa trả tiền cho H1.
Với hành vi trên, bị cáo Trần Văn D bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Trần Văn D: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo chưa thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền phạt, tiền án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm, bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa phương, được Chính quyền địa phương xác nhận, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy, trong vụ án này, bị cáo chỉ tham gia đánh bạc thông qua việc gửi tin nhắn với bị cáo H1 một lần vào ngày 13/9/2018, giữa bị cáo D với bị cáo H1 chưa giao dịch trực tiếp bằng tiền. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, dưới sự giám sát, giáo dục của Chính quyền địa phương, cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trịnh Văn T rút kháng cáo tại phiên tòa; kháng cáo của bị cáo D được chấp nhận nên các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 342; 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trịnh Văn T.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn D, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 16/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đối với bị cáo Trần Văn D.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn D phạm tội “Đánh bạc”.
1. Về hình phạt:
Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn D 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Trần Văn D cho Ủy ban nhân dân xã HC, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo, theo quy định tại Điều 93 Luật thi hành án hình sự.
- Ghi nhận bị cáo Trịnh Văn T đã nộp số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) là tiền phạt bổ sung theo quyết định của bản án sơ thẩm, tại biên lai thu tiền số 0002422, ngày 09/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
- Ghi nhận bị cáo Trần Văn D đã nộp số tiền 10.200.000đ (mười triệu hai trăm nghìn đồng) là tiền án phí hình sự sơ thẩm và tiền phạt bổ sung theo quyết định của bản án sơ thẩm, tại biên lai thu tiền số 0002423, ngày 29/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
2. Án phí:
Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Các bị cáo Trịnh Văn T và Trần Văn D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 16/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 60/2020/HS-PT ngày 05/05/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 60/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về