Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 60/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Đại xét xử sơ thẩm C khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 257/2020/TLST – HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2 0 20/QĐXXST–HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hương L, sinh năm: 1990 (Có mặt). Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn B, huyện L, tỉnh Bến Tre.

+ Bị đơn : Anh Trương Chí C, sinh năm: 1991 (Vắng mặt). Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện H, tỉnh Bến Tre

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07/02/2020, trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án và trong quá trình xét xử Nguyên đơn chị Lê Thị Hương L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh C chung sống với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại Ủy ban nhân dân thị trấn thị trấn B, huyện L, tỉnh Bến Tre.

Trong thời kỳ hôn nhân chị L và anh C chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường hay cãi vã. Chị L và anh C sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ tình cảm vợ chồng từ đầu năm 2019 cho đến nay.

Chị L thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa. Vì vậy chị L làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị L khai, chị L và anh C có 01 người con chung tên là: Trương Lê Bảo Ng, sinh ngày: 19/10/2016 hiện đang sống chung với chị L, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; Về nợ chung: Chị L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, C khai chứng cứ và hòa giải cho anh C nhưng anh C không đến Tòa án để giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Lan.

Tại phiên tòa chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đối với anh Công, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 02 đến phiên tòa xét xử, nhưng anh C vẫn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Chị Lê Thị Hương L khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với anh Trương Chí C và yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Do đó quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Theo xác nhận ngày 07/02/2020 của Công an xã T, huyện H. Anh Trương Chí C có đăng ký thường trú tại: ấp T, xã Tuận, huyện H, tỉnh Bến Tre và hiện đang sinh sống tại địa phương. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại.

[3] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Trương Chí C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai đến phiên tòa xét xử nhưng anh Trương Chí C vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt anh Trương Chí C.

[4] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh C chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 14/2017 ngày 13/3/2017 do Ủy ban nhân dân thị trấn thị trấn B, huyện L, tỉnh Bến Tre cấp. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh C là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong thời kỳ hôn nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau, chị L và anh C vẫn sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay vẫn không hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tổ chức hòa giải để tạo điều kiện cho chị L và anh C hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng những lần hòa giải anh C đều vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ anh C đã không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân này và mâu thuẫn hai bên đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Từ những nhận định nêu trên, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh Công.

Về con chung: Chị L khai, chị L và anh C có 01 người con chung tên là: Trương Lê Bảo N, sinh ngày: 19/10/2016 hiện đang sống chung với chị Lan, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án anh C không có ý kiến gì về việc nuôi con chung, hiện nay cháu Ngọc đang sống chung với chị L vẫn đảm bảo tốt về thể chất lẫn tinh thần. Nhằm tránh xáo trộn cuộc sống của cháu Ngọc do đó giao cháu Ngọc cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình: Sau khi ly hôn cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Chị L tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung; về nợ chung: Chị L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận. Nếu sau này anh C có tranh chấp về tài sản chung, về nợ chung thì khởi kiện vụ án khác.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án hôn nhân và gia đình: Buộc chị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Hương L đối với anh Trương Chí C. Chị Lê Thị Hương L được ly hôn với anh Trương Chí C.

[2] Về con chung: Chị Lê Thị Hương L và Trương Chí C có 01 người con chung tên là: Trương Lê Bảo N, sinh ngày: 19/10/2016.

Giao cháu Trương Lê Bảo N cho chị Lê Thị Hương L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Trương Lê Bảo N thành niên (Đủ 18 tuổi).

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Hương L không yêu cầu anh Trương Chí C cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

Anh Trương Chí C không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với chị Lê Thị Hương L.

Sau khi ly hôn, anh Trương Chí C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh Trương Chí C không trực tiếp nuôi con, lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị Lê Thị Hương L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Trương Chí C.

Anh Trương Chí C cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của chị Lê Thị Hương L.

Chị Lê Thị Hương L cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Trương Chí C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trên cơ sở lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung; Về nợ chung: Chị Lê Thị Hương L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận. Nếu sau này anh Trương Chí C có tranh chấp về tài sản chung, về nợ chung thì khởi kiện vụ án khác.

[4] Về án phí sự sơ thẩm đối với vụ án hôn nhân và gia đình: Buộc chị Lê Thị Hương L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Lê Thị Hương L đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0000666 ngày 11/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại. Chị Lê Thị Hương L đã nộp đủ án phí.

[5] Về quyền kháng cáo:

Chị Lê Thị Hương L có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Trương Chí C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân tỉnh Bến Tre giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:60/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về