Bản án 60/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Hôm nay, ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở TAND thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2019/TLST-HS, ngày 02 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXXST-HS, ngày 14/10/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Mạnh H - Sinh ngày 24/02/1991 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu 8, xã P, thị xã P, tỉnh P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Minh S ; Sinh năm: 1958 và bà Bùi Thị T; Sinh năm: 1964; Gia đình bị cáo có 02 anh em ruột: Bị cáo là con thứ nhất; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú" tại xã P, thị xã P, tỉnh P. (Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại:

Anh Trần Quang C, sinh năm: 1986;

Chị Hán Thị H, sinh năm: 1985; Cháu Trần Quang D, sinh năm: 2016

Đều trú tại: Thôn T, xã Kiên T, huyện L, tỉnh B.

Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: Chị Hán Thị H, sinh năm: 1985 (Mẹ đẻ cháu D).

(Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ, ngày 24/02/2019 Lê Mạnh H, sinh năm 1991, trú tại: khu 8, xã P, thị xã P, tỉnh P (có giấy phép lái xe hạng A1 do Sở giao thông vận tải thành phố Hà Nội cấp ngày 30/3/2019) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 19M1-159.88 nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đỏ - đen đi về nhà theo đường Quốc lộ II hướng từ huyện Đoan Hùng đi huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Khi đi đến km 80+ 500, quốc lộ II thuộc khu 3, xã Phú Hộ, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, H điều khiển xe mô tô đi với vận tốc khoảng 60km/h ở phần đường bên phải theo chiều đi của H. Đây là đoạn đường hai chiều thẳng, tầm nhìn thoáng, không bị che khuất bởi chướng ngại vật, mặt đường rộng 7,1 m trải nhựa tương đối bằng phẳng, có vạch kẻ giữa tim đường phân chia phần đường, làn đường xe chạy. H quan sát thấy phía trước khoảng 35 - 40m có 03 người gồm: anh Trần Quang C, sinh năm: 1986; chị Hán Thị H, sinh năm: 1985 là vợ anh C và cháu Trần Quang D, sinh năm: 2016 là con trai anh D, đều trú tại: xã K, huyện L, tỉnh B đang đứng trong phần lề đường phải, sát mép đường phải theo chiều đi của H. Lúc này, anh C bế cháu D trên tay, chị H đứng cạnh phía bên phải anh C. Khi H điều khiển xe đi đến gần vị trí của anh C, chị H, cháu D, do Hùng đã uống rượu, không làm chủ được tốc độ nên xe mô tô do H điều khiển đã đi vào phần lề đường phải theo chiều đi của H. Xe mô tô do H điều khiển đã va chạm vào phần bụng của anh C và tiếp tục va chạm vào người chị H, sau đó xe bị đổ, văng về phía trước khoảng 6-7m rồi dừng lại. Hậu quả: H, chị H, cháu D bị thương được đưa đến trung tâm y tế huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ cấp cứu và điều trị, đến ngày 01/3/2019 thì ra viện. Anh C bị thương nặng nên được đưa đến trung tâm y tế huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ rồi chuyển đến bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ cấp cứu và điều trị, đến ngày 15/3/2019 thì ra viện.

Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Phú Thọ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện theo quy định của pháp luật, tạm giữ của Lê Mạnh H: 01 xe mô tô biển kiểm soát 19M1- 159.88 cùng chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe và 01 giấy phép lái xe số 260164022203 đều mang tên Lê Mạnh H. Cơ quan điều tra đã kiểm tra nồng độ cồn đối với H, xác định khi điều khiển xe mô tô trên đường tại thời điểm gây ra vụ tai nạn giao thông, trong hơi thở của Hùng có nồng độ cồn là 0,996 miligam/01 lít khí thở (vượt quá mức quy định cho phép 0,746 miligam/01 lít khí thở).

Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Phú Thọ đã trưng cầu Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Phú Thọ xác định tỷ lệ tổn hại sức khỏe của anh Trần Quang C, chị Trần Thị H và cháu Trần Quang D.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 40/TgT/2019 ngày 15/3/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Phú Thọ kết luận:

Trên cơ thể anh C có các thương tích sau:

Vết sẹo phần mềm đường nách giữa khoang liên sườn VI bên phải, hai vết sẹo phần mềm mặt trong khớp cổ chân kích thước nhỏ (bao gồm cả sẹo phẫu thuật): 03%.

Vết sẹo phần mềm 1/3 dưới mặt ngoài cẳng chân phải kích thước lớn (sẹo phẫu thuật): 08%.

Vùng xây xát da không liên tục hạ sườn bên phải kích thước nhỏ: 04%. Gãy ½ thân răng số 1.1: 0,75%.

Gãy ½ thân răng số 2.1: 0,75%.

Gãy xương sườn VII, VIII, IX, X, XII, XII bên phải: 15%.

Tổn thương nhu phổi bên phải đã phẫu thuật dẫn lưu khoang màng phổi: 10%. Tổn thương nhu phổi bên trái không phẫu thuật: 06%.

Đng dập nhu mô gan phải hạ phân thùy VI, VII kích thước 7,3 x 6,3 cm điều trị bảo tồn bằng nội khoa: 09%.

Gãy vỡ xương cánh chậu phải nhiều mảnh xương vỡ xung quanh: 20%.

Gãy đầu dưới hai xương cẳng chân phải đã phẫu thuật còn phương tiện kết hợp xương: 20%.

Áp dụng phương pháp cộng lùi các tổn thương: 64,65%. Làm tròn: 65%.

Kết luận: Tỷ lệ tổn hại sức khỏe của anh Trần Quang C là 65% (sáu mươi lăm phần trăm).

Cơ chế hình thành thương tích:

Vùng xây sát da hạ sườn bên phải. Vết sẹo số hai mặt trong cẳng chân phải. Gãy ½ thân răng số 1.1; 2.1. Gãy xương sườn VII, VIII, IX, X, XII, XII bên phải. Tổn thương nhu mô phổi hai bên. Đụng dập nhu mô gan phải hạ phân thùy VI, VII. Gãy vỡ xương cánh chậu phải nhiều mảnh xương vỡ xung quanh. Gãy đầu dưới hai xương cẳng chân phải: Do tác động của vật cứng.

Vết sẹo đường nách giữa khoang liên sườn VI bên phải. Vết sẹo số hai mặt trong cẳng chân phải. Vết sẹo 1/3 dưới mặt ngoài cẳng chân phải: Do bác sỹ phẫu thuật để điều trị.

Chưa đủ điều kiện để đánh giá mức độ ảnh hưởng thẩm mỹ và gây di chứng.” Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 68/TgT/2019, ngày 16/4/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Phú Thọ kết luận:

“Trên cơ thể chị Hán Thị H có một vết sẹo phần mềm vùng thắt lưng hông bên trái và hai vết sẹo phần mềm mu bàn chân trái.

Tỷ lệ tổn hại sức khỏe của chị Hán Thị H là 03% (ba phần trăm).

Cơ chế hình thành thương tích: ba vết sẹo phần mềm do tác động của vật cứng gây nên, Các vết sẹo không ảnh hưởng thẩm mỹ, không để lại di chứng.”

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 69/TgT/2019, ngày 16/4/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Phú Thọ kết luận:

“Trên cơ thể cháu D có các thương tích sau: Vết sẹo phần mềm vùng chẩm, gãy ½ thân răng 5.1.

Tỷ lệ tổn hại sức khỏe của cháu Trần Quang D là 02% (hai phần trăm).

Cơ chế hinhg thành thương tích: Vết sẹo phần mềm vùng chẩm, gãy ½ thân răng 5.1 do tác động của vật cứng gây nên.

Vết sẹo phần mềm vùng chẩm, gãy ½ thân răng 5.1: không ảnh hưởng thẩm mỹ và không để lại di chứng.” Tại thời điểm giám định thương tích đối với anh Trần Quang C chưa đủ điều kiện để đánh giá mức độ ảnh hưởng thẩm mỹ và gây di chứng. Ngày 12/4/2019, cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thị xã Phú Thọ đã trưng cầu giám định bổ sung xác định mức độ ảnh hưởng thẩm mỹ và gây di chứng nhưng do anh C vẫn còn phương tiện kết hợp xương nên Trung tâm pháp y tỉnh Phú Thọ không có căn cứ để kết luận. Ngày 18/8/2019, anh Trần Quang C có đơn từ chối giám định bổ sung và đồng ý với bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 40/TgT/2019 ngày 15/3/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Phú Thọ nên cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thị xã Phú Thọ đã sử dụng bản kết luận giám định này làm căn cứ giải quyết vụ án. Bị cáo, bị hại đã nhận được bản kết luận giám định pháp y về thương tích, đồng ý với nội dung kết luận và không có ý kiến đề nghị gì.

Ngày 07/5/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã Phú Thọ đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can đối với Lê Mạnh H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, quy định tại khoản 2 Điều 260 - Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, Lê Mạnh H đã tự nguyện bồi thường cho gia đình anh C số tiền: 78.000.000 đồng (Bảy mươi tám triệu đồng) là tiền thanh toán viện phí, tiền thuốc điều trị và bồi dưỡng sức khỏe cho anh C, chị H và cháu D. Anh C đại diện gia đình đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu H phải bồi thường thêm bất kỳ khoản tiền nào khác, đồng thời có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với Lê Mạnh H.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và truy tố, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và thành khẩn khai báo, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng nên Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo là phù hợp.

Về vật chứng của vụ án: Kết quả điều tra xác định chiếc xe mô tô BKS 19M1 – 159.88 là xe của Lê Mạnh H. Xét thấy việc trả xe không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên ngày 20/6/2019, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cùng đăng ký xe, chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe cho Lê Mạnh H là chủ sở hữu hợp pháp. Giấp phép lái xe của Lê Mạnh H được chuyển theo hồ sơ vụ án.

Hành vi phạm tội của Lê Mạnh H được chứng minh bằng biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám phương tiện, kết luận giám định pháp y về thương tích, biên bản đo nồng độ cồn, lời khai của người bị hại, người làm chứng, lời khai nhận của bị cáo cùng các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 60/CT -VKSTXPT ngày 30/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ đã Truy tố bị cáo Lê Mạnh H về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông thường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo H đã hoàn toàn thừa nhận điều khiển mô tô gây tai nạn cho gia đình anh Trần Quang C, chị Hán Thị H và cháu Trần Quang D dẫn đến cả ba người bị thương tích như đã nêu ở phần trên. Bị cáo hoàn toàn nhận tội, không có lời bào chữa nào khác và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện VKSND thị xã Phú Thọ vẫn giữ nguyên Quyết định Truy tố, bản luận tội của Kiểm sát viên chứng minh hành vi của bị cáo đã phạm tội: Vi phạm quy định về tham gia giao thông thường bộ và khẳng định bản cáo trạng đã quyết định truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã nêu là hoàn toàn đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1và khoản 2 điều 51, khoản 1Điều 54 và Điều 65 - BLHS.

Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Mạnh H từ 30 đến 36 tháng tù cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 05 năm.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo H;

Áp dụng Điểm a,b Khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự.

Về bồi thường dân sự:

Đề nghị xác nhận bị cáo H và những người bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường 78.000.000đ cho những người bị hại do anh Trần Quang C đã nhận đủ theo biên bản giải quyết lập ngày 19/6/2019 tại Công an thị xã Phú Thọ là hợp pháp.

Về vật chứng:

Đề nghị xác nhận cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trả cho đã trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô BKS: 19M1 15988 nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER màu sơn đỏ - đen, số máy G3D4E544536, số khung 0610HY521563, dung tích 149m3 tình trạng xe cũ, xe bị hư hỏng do TNGT cùng các giấy tờ liên quan đến chiếc xe theo biên bản trao trả tài sản lập ngày 20/6/2019 là hợp pháp.

Đề nghị trả lại cho bị cáo H 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Lê Mạnh H.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật . Bị cáo Lê Mạnh Hùng tự bào chữa cho bản thân, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, người đại diện cho người bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người đại diện cho bị hại đã khai báo đầy đủ, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Mạnh H đã khai nhận vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với quá trình điều tra, giải quyết vụ án do đó có đủ cơ sở khẳng định:

Khong 21 giờ ngày 24/02/2019 tại đoạn đường km 80+ 500 quốc lộ II thuộc khu 3, xã Phú Hộ, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; Lê Mạnh H (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 19M1 - 159.88 hướng từ huyện Đoan Hùng đi huyện Phù Ninh do không làm chủ tốc độ, đi không đúng phần đường quy định đã gây tai nạn giao thông cho anh Trần Quang C, chị Hán Thị H và cháu Trần Quang D, hậu quả: anh C, chị H, cháu D bị thương tích với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 70%. Kết quả điều tra xác định khi điều khiển xe mô tô trên đường, trong hơi thở của Hùng có nồng độ cồn là 0,996 miligam/1 lít khí thở.

Hành vi điều khiển xe mô tô khi tham gia giao thông đường bộ trong hơi thở có nồng độ cồn, đi không đúng phần đường của Lê Mạnh H dẫn đến gây tai nạn giao thông đã vi phạm quy định tại khoản 8, Điều 8; khoản 1, Điều 9 - Luật giao thông đường bộ và khoản 6, điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ, gây thương tích cho 03 người với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 70%.

Khon 8 Điều 8 - Luật giao thông đường bộ quy định: “Các hành vi bị nghiêm cấm:…

8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Khon 1 Điều 9 - Luật giao thông đường bộ quy định:

“1.Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”.

Khon 1, Điều 5 Thông tư 91 quy định:

“Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp sau:

1. Có biển cảnh báo nguy hiểm hoặc có chướng ngại vật trên đường.” Từ những Điều khoản nêu trên thì Lê Mạnh H đã phạm tội : “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 260 Bộ luật hình sự.

Điều 260 - Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) ...

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích khác ...” Cáo trạng của VKSND thị xã Phú Thọ truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, tội phạm đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, hành vi phạm tội của bị cáo mặc dù không gây chết người, nhưng đã gây thiệt hại đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự an toàn trên xã hội, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng.

Xét về nhân thân: Bị cáo có một nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội, biết ăn năn hối cải, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, Bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho những người bị hại tổng cộng số tiền bằng 78.000.000đ để khắc phục hậu quả, những người bị hại (Anh Chương và chị Hằng) đều có đơn đề nghị HĐXX chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên HĐXX sẽ xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ vào nhân thân của bị cáo, văn bản quan điểm đề nghị của người bị hại, xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần có một hình phạt cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo đang cư trú cũng đủ cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Tại khoản 5 Điều 260 - BLHS quy định " Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm". Xét thấy trong quá trình đều tra đã làm rõ nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, sự thành khẩn của bị cáo, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho người bị hại. Người bị hại có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo không có nghề nghiệp gì, nên HĐXX miễn áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại điều luật đối với Hùng là phù hợp.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình điều tra những người bị hại là anh Trần Quang C và chị Hán Thị H đã xác nhận bị cáo Hùng đã tự nguyện bồi thường theo thỏa thuận với số tiền là 78.000.000đ, không ai có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản gì khác. Xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận số tiền đã bồi thường giữa bị cáo đối với người bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật cần xác nhận.

HĐXX không đặt ra xem xét về nghĩa vụ bồi thường dân sự nữa.

[4] Về vật chứng vụ án:

Cần xác nhận cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trả cho bị cáo Lê Mạnh H 01 chiếc xe mô tô BKS: 19M1 – 159.88 kèm theo đăng ký xe, chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe cho Lê Mạnh H theo biên bản trao trả tài sản lập ngày 20/6/2019 là hợp pháp.

Trả lại cho bị cáo H 01 giấp phép lái xe của Lê Mạnh H ngay sau khi kết thúc phiên tòa.

[6] Về án phí:

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định .

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Đại diện VKSND thị xã Phú Thọ tại phiên Toà phù hợp với nhận định của HĐXX, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và khoản 1,2,5 Điều 65 - BLHS. Điểm d khoản 1 Điều 125 - BLTTHS.

Tuyên bố bị cáo Lê Mạnh H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” .

Xử phạt bị cáo: Lê Mạnh H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (Năm) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho UBND xã Phú Hộ, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo (Bị cáo Hùng) cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung theo quy định tại điều luật đối với bị cáo Hùng.

Hy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 81/2019/LCĐKNCT, ngày 02/10/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ cho bị cáo Lê Mạnh H.

[2] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Xác nhận bị cáo H đã bồi thường theo thỏa thuận cho những người bị hại là anh Trần Quang C, chị Hán Thị H và cháu Trần Quang D do anh C nhận số tiền là 78.000.000đ (Bẩy mươi tám triệu đồng) theo biên bản giải quyết lập ngày 19/6/2019 tại Công an thị xã Phú Thọ để khắc phục hậu quả là hợp pháp.

[3] Về vật chứng vụ án:

Áp dụng khoản 2 Điều 47 - BLHS; Điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xác nhận cơ quan điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã trả cho bị cáo Lê Mạnh H 01 chiếc xe mô tô BKS: 19M1 15988 nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER mau sơn đỏ - đen, số máy G3D4E544536, số khung 0610HY521563, dung tích 149m3 tình trạng xe cũ, xe bị hư hỏng do TNGT cùng các giấy tờ liên qua đến chiếc xe theo biên bản trao trả tài sản lập ngày 20/6/2019 là hợp pháp.

Trả lại cho bị cáo H 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 260164022203 mang tên Lê Mạnh H ngay sau khi kết thúc phiên tòa.

[4] Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 – BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Lê Mạnh H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm .

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo (Có mặt) được quyền kháng cáo lên TAND tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm, những người bị hại (Vắng mặt) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú để yêu cầu lên TAND tỉnh Phú Thọ xét xử phúc phẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về