Bản án 60/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2019/TLST-HS, ngày 22 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HS ngày 09/5/2019 đối với bị cáo:

Ngô Mạnh T1; tên gọi khác: Không; sinh ngày 28/6/19xx tại P, N; nơi cư trú: Tổ 4, khu 1, phường Ô, thành phố P, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Văn N, sinh năm: 1958 và bà Vũ Thị T2, sinh năm: 19xx; có vợ là Phạm Thị Q1 và 02 con, con lớn sinh năm 20xx, con nhỏ sinh năm: 20xx; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt quả tang ngày 22/01/2019, hiện tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố P, có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Quốc L, anh Tô Ích B, anh Tô Phương Q2, anh Diệp Quý K và anh Bùi Đình C, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ, ngày 22/01/2019, tại khu vực tổ xx, khu xx, phường P1, thành phố P, Ngô Mạnh T1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,296 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của bị cáo T1 gồm: 01 gói giấy bạc chứa chất tinh thể màu trắng, 01 gói giấy màu trắng bên trong có 01 nắp chai đục lỗ gắn một ống hút nhựa, một ống thủy tinh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 200.000đồng.

Tại bản kết luận giám định số: 230/GĐMT ngày 27/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,296gam (không phẩy hai chín sáu gam). Hoàn lại 0,23gam (không phẩy hai ba gam) Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Ngô Mạnh T1 khai nhận: T1 sử dụng ma túy đá từ năm 2016. Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 22/01/2019, L là bạn quen biết gọi điện rủ T1 mua ma túy đá cùng sử dụng, T1 đồng ý. L điều khiển xe mô tô đến nhà chở T1 đi về phía phường P1. Trên đường đi, L nói không biết chỗ mua ma túy và đưa T1 500.000đồng. T1 chỉ đường để L điều khiển xe chở T1 đến ngõ 11 đằng sau đài tưởng niệm, phường P1 thì T1 xuống xe đi bộ còn L đứng đợi ở ngõ. T1 vào nhà Tô Ích B gọi thì có một nam T2 niên thường gọi là Tèo ra gặp. T1 nói mua 500.000đồng ma túy đá và cho mượn bộ sử dụng. Tèo vào trong nhà khoảng 2 đến 3 phút đi ra đưa cho T1 một gói ma túy đá gói trong giấy bạc và một bộ đồ sử dụng ma túy đá gói trong giấy vệ sinh, Tèo bảo chỉ còn 300.000đồng ma túy đá nên trả lại T1 200.000đồng. T1 cầm ma túy trên tay đi bộ ra ngõ nhưng không thấy L thì có Công an đến kiểm tra, sợ quá T1 đã vứt gói ma túy và bộ đồ sử dụng ma túy đá ngay dưới chân nhưng Công an kịp phát hiện thu giữ toàn bộ vật chứng. Mục đích T1 mua ma túy để sử dụng. Bị cáo T1 khẳng định việc Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử bị cáo hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội không oan.

Người làm chứng anh Bùi Đình C, anh Diệp Quý K vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan điều tra có lời khai thể hiện: Khoảng 18 giờ, ngày 22/01/2019, các anh có việc đi qua khu vực tượng đài tưởng niệm, phường P1 thì nhìn thấy Công an kiểm tra thu giữ của nam T2 niên khai tên là Ngô Mạnh T1 một gói giấy bạc bên trong có ma túy đá, một bộ đồ sử dụng ma túy đá được gói trong giấy vệ sinh, một điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 200.000đồng. Sau đó Công an triệu tập T1 và các anh C, K về trụ sở Công an phường P1 làm việc. Các anh C, K không quen biết, không mâu thuẫn với T1.

Người làm chứng Tô Ích B, Tô Phương Q2, Nguyễn Quốc L vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại cơ quan điều tra có lời khai thể hiện: B, Q2 không quen biết, không mâu thuẫn với Ngô Mạnh T1, giữa L với T1 là bạn không có mâu thuẫn.

Bản thân B bị ung thư tụy giai đoạn cuối, sức khỏe yếu chỉ nằm tại nhà, hiện sống cùng vợ và con trai là Tô Phương Q2. B không bán ma túy và không biết việc bán ma túy cho T1. Còn Q2 khai nhận: Q2 là con và chung sống cùng nhà với Tô Ích B tại tổ 21, khu 2A, phường P1, thành phố P nhưng ít khi Q2 ở nhà vì thường xuyên đi làm tăng ca tại phân xưởng. Tối ngày 22/01/2019, Q2 đi làm không có nhà, ngoài tên Q2 không có tên khác và không có tên biệt danh. Q2 không bán ma túy và không biết việc bán ma túy cho T1. L khai nhận: L là bạn của T1, ngày 22/01/2019 có gọi điện cho T1 để nói chuyện hỏi thăm sau đó ở nhà nên không có việc L chở và đưa tiền cho T1 mua ma túy cùng sử dụng.

Tại bản cáo trạng số: 58/CT-VKS-CP, ngày 17/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Ngô Mạnh T1 ra trước Tòa án nhân dân thành phố P để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Kiểm sát viên trình bày luận tội đưa ra các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Ngô Mạnh T1 từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 22/01/2019, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng điểm a,b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,23gam ma tuý đá; 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá; tịch thu sung ngân sách Nhà nước 200.000đồng; trả bị cáo Ngô Mạnh T1 một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

Đối với đối tượng L, quá trình điều tra xác định là Nguyễn Quốc L (sinh năm: 1995, trú tại: tổ 11, khu 7, phường Mông Dương). L khai ngày 22/01/2019, L có liên lạc rủ T1 đi chơi nhưng sau đó L bận việc nên đã ở nhà. L không đi mua ma túy cùng T1 và cũng không đưa tiền cho T1 nhờ mua ma túy; Đối tượng B, quá trình điều tra xác định là Tô Ích B có con là Tô Phương Q2, sinh năm: 1996. Tiến hành cho T1 nhận dạng, T1 không nhận dạng được và Q2 cũng không thừa nhận việc bán ma túy cho T1 nên không có căn cứ xử lý các đối tượng L, B, Q2.

Tại phần tranh luận, bị cáo T1 không tranh luận và đưa ra đề nghị gì trước nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Ngô Mạnh T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và vật chứng thu giữ cũng như các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản ảnh vật chứng; Sơ đồ vị trí Ngô Mạnh T1 mua ma túy; Kết luận giám định số: 230/GĐMT ngày 27/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N và bản luận tội của Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa.Với các chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ, ngày 22/01/2019, tại khu vực tổ 22, khu 2A, phường P1, thành phố P, Ngô Mạnh T1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,296 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý nhưng không có ý thức chấp hành pháp luật nên đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,296gam ma túy đá, mục đích để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, thỏa mãn dấu hiệu và đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nội dung luận tội của Kiểm sát viên phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) thì thấy: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy; Về tình tiết tăng nặng: Không có; Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật mà cải tạo, giáo dục thành người lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định, nhằm giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng bị cáo là đối tượng sử dụng ma tuý không có công việc thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[6] Về vật chứng: 0,23 gam ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 01 gói giấy vệ sinh màu trắng bên trong có 01 nắp chai đục lỗ gắn 01 ống thủy tinh và 01 ống hút nhựa không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 200.000đồng theo bị cáo khai là của L nhưng L không thừa nhận nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước; Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO, màu hồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Áp dụng: điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Mạnh T1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Mạnh T1 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/01/2019.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 230/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N và 01 (một) gói giấy vệ sinh màu trắng bên trong có 01 (một) nắp chai đục hai lỗ gắn 01 (một) ống thủy tinh và 01 (một) ống hút nhựa; Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng); Trả lại bị cáo Ngô Mạnh T1 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu hồng kèm 01 (một) sim. (Tình trạng vật chứng được thi hành theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 93/BB-THA, ngày 10/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Ngô Mạnh T1 phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về