Bản án 60/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thanh H; tên gọi khác: B; sinh ngày: 01/04/1989; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT: Thôn X, xã Đ, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Số M đường T, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Lê Văn H và bà: Trần Thị Bích Th; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Ngày 30/06/2014 Cơ quan Công an TP. B xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quyết định XLVPHC số 01, mức phạt 1.500.000 đồng, hiện chưa nộp phạt; tiền án: Ngày 26/05/2009 Tòa án nhân dân thị xã B xử phạt 20 tháng tù giam về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999, chưa được xóa án tích. Ngày 08/07/2014 Tòa án nhân dân TP. B xử phạt 02 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 1999, chưa được xóa án tích. Ngày 15/08/2016 Tòa án nhân dân TP. B xử phạt 30 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm c khoản 2, Điều 138 BLHS 1999, chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Ngày 21/12/2005, Toà án nhân dân thị xã B xử phạt 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS 1999, đã được xóa án tích. Ngày 29/08/2011 UBND tỉnh Lâm Đồng ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị tạm giam từ ngày 31/01/2019 đến nay, có mặt.

- Bị hại: Bà Lê Thị Th, sinh năm 1948, trú tại: Số X đường T, tổ Y, phường L, TP. B, Lâm Đồng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thanh H là người đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Vào khoảng thời gian đầu tháng 01 năm 2019, H biết gia đình bà Lê Thị Th, HKTT: Số X đường T, tổ Y, phường L, TP. B có 01 con gà đá nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Vào khoảng 18 giờ ngày 14/01/2019, H liên lạc qua điện thoại di động thỏa thuận mua con gà của bà Th với giá 2.700.000 đồng. H chuẩn bị 22 tờ tiền âm phủ và dùng 04 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng (là tiền thật) bọc ngoài cọc tiền âm phủ bỏ vào cốp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng, BKS: 49K1 - 441.54 đi đến nhà bà Thả. H dựng xe mô tô quay phía ngoài đường hẻm trước cổng nhà bà Th, đầu xe mô tô quay sẵn ra hướng đường T, đi vào nhà thỏa thuận mua bán gà với bà Th, sau đó H đi ra mở cốp xe mô tô lấy cọc tiền âm phủ được bọc ngoài bằng 04 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng đi vào cửa nhà giao cho bà Th. Khi bà Th vừa cầm tiền kiểm đếm thì H cũng cúi xuống lấy túi xách đựng con gà đá nặng 2,6 kg của bà Th đi ra xe mô tô. Khi H đang đi trong khu vực sân nhà thì bà Th phát hiện số tiền H dùng mua gà có tiền âm phủ nên đã tri hô và cùng anh Lâm Thanh Tr (là cháu trai bà Th) truy đuổi, H cầm theo túi xách đựng con gà chạy ra xe mô tô chạy thoát. Đến khoảng 02 ngày sau, H mang con gà chiếm đoạt của bà Th cho bạn là chị Vũ Thị Tuyết Nh, HKTT: Số M đường T, phường B’, Tp. B làm thịt.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Hội đồng định giá TP. B xác định: 01 con gà trống màu lông đỏ, đen, vàng, trọng lượng 2,6 kg trị giá 286.000 đồng, 01 chiếc giỏ bằng cói rộng 50cm, cao 40cm trị giá 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 336.000 đồng.

Vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 49K1 - 441.54 là phương tiện phạm tội. Đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa xác định được nguồn gốc; 04 tờ tiền Việt Nam đồng mệnh giá 10.000 đồng; 22 tờ tiền âm phủ; 01 đĩa DVD chứa dữ liệu điện tử (vật chứng được kèm theo hồ sơ vụ án).

Về trách nhiệm dân sự: Bà Lê Thị Th không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không có thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng. Bị cáo nhận thức hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật.

Bản Cáo trạng số 53/CT-VKS.BL ngày 07 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Lê Thanh H về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lê Thanh H là đối tượng đã có 01 tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Vào ngày 14/01/2019, H thỏa thuận mua tài sản của bà Lê Thị Th với giá 2.700.000 đồng. Nhưng khi giao tiền, H đã sử dụng thủ đoạn dùng 04 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng (là tiền thật) bọc bên ngoài cọc tiền gồm 22 tờ tiền âm phủ đưa cho bà Lê Thị Th để chiếm đoạt tài sản của bà Th. Tổng giá trị tài sản H chiếm đoạt của bà Th là 336.000 đồng. Hành vi của Lê Thanh H là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo H từ 12 đến 15 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về phần dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 49K1 - 441.54, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp đề nghị giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. B tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo thẩm quyền. Đối với 04 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000đ đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 22 tờ tiền âm phủ đề nghị tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 đĩa DVD chứa dữ liệu điện tử kèm theo hồ sơ vụ án nên không đề nghị xử lý.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lê Thanh H đã có 01 tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích. Vào ngày 14/01/2019, H thỏa thuận mua tài sản của bà Lê Thị Th với giá 2.700.000 đồng. H đã sử dụng thủ đoạn dùng 04 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng (là tiền thật) bọc bên ngoài cọc tiền gồm 22 tờ tiền âm phủ đưa cho bà Lê Thị Th để nhằm chiếm đoạt tài sản của bà Th. Giá trị tài sản H chiếm đoạt của bà Th là 336.000 đồng (ba trăm ba mươi sáu ngàn đồng). Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương do vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy: Bị cáo có nhân thân xấu do vậy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 04 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000đ là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 22 tờ tiền âm phủ xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. 01 đĩa DVD chứa dữ liệu điện tử kèm theo hồ sơ vụ án nên không đề cập xử lý. 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 49K1 - 441.54, số máy: 53X9E-049847, số khung: RLCUE3240HY018196 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp cần tiếp tục giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. B tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo thẩm quyền.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Thanh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lê Thanh H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2019.

2/ Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 22 tờ tiền âm phủ; tịch thu sung quỹ Nhà nước 04 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000đ. (Vật chứng kèm theo hồ sơ vụ án). Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. B tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo thẩm quyền đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 49K1-441.54, số máy: 53X9E-049847, số khung: RLCUE3240HY018196 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/5/2019 giữa cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TP. B với Chi cục Thi hành án dân sự TP. B).

3/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lê Thanh H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về